TIN VUI

Tuần san Bạn trẻ Công Giáo  -  Số 74 CN 25.02.2007

 

Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

Hoặc : tinvuivietnam@gmail.com

 

Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

Hoặc : tinvuivietnam@gmail.com

 

 

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY C.25..02.2007.

SỐNG TINH THẦN SA MẠC.

SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2007 CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC

Mùa Chay là dịp để ”tái trở thành kitô hữu”..

MÙA CHAY LÀ MÙA HOÀ GIẢI.

TÌM HIỂU VỀ MÙA CHAY..

LÒNG HIẾU HOÀ VÀ HIẾU SINH TRONG THƯ MỤC VỤ 2006 - HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM   

BẪY NGẦM...

ĐỪNG ĐỂ MÙA XUÂN HẾT XUÂN..

Thế nào là sống mùa chay?.

TOMASELLA MANFERRARI: BÀ MẸ HIỀN CHẾT CHO CON ĐƯỢC SỐNG..

Giáo Dục Giới Tính  HẬU QUẢ, NỖI ĐAU… CHỈ VÌ NGÂY THƠ & THIẾU HIỂU BIẾT.. 

YÊU, MỘT VŨ ĐIỆU HAI NHỊP..

DẤU CHÂN CỦA THẦY..

CÁM DỖ..  

 

SỐNG LỜI CHÚA          

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY C

25..02.2007

Lc 4, 1-13

"Thánh Thần thúc đẩy Chúa vào hoang địa, và chịu cám dỗ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa  ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi". Chúa Giêsu đáp: "Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa".

Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!" Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi".

Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giêrusalem, để Người trên góc tường cao đền thờ và bảo rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: "Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!" Và còn thêm rằng: "Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá". Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!" Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác. Đó là lời Chúa.

Mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta tìm lại ân sủng của Thiên Chúa. Ân sủng ấy theo sách Nhị Luật luôn đồng hành với dân Người, dù là trong kiếp du mục ngoại cư trên đất Ai Cập, nhờ thế mà từ một nhóm ngoại kiều nhỏ nhoi, họ đã trở nên một dân tộc vĩ đại, hùng mạnh và đông đúc. Khi người Ai Cập ngược đãi và hành hạ, Thiên Chúa đã nhìn thấy nỗi thống khổ và khốn cùng của dân Người, Người lập tức dẫn họ ra khỏi Ai Cập với quyền năng oai hùng và mạnh mẽ... ban cho họ đất chảy sữa và mật. Chân lý ấy nhiều tiên tri đã không ngần ngại lặp đi lặp lại trong lời rao giảng của các Ngài "Nào người mẹ có thể quên con mình, và nếu người mẹ nào quên con mình, Ta cũng không hề quên Ngươi". Ý thức về sự đồng hành và chia sẻ cuộc sống mà Thiên Chúa hằng trung tín thi hành cho dân Người là khởi điểm thiết yếu cho mọi cuộc hoán cải và canh tân lòng tin. Chính Môsê đã truyền dạy phải khởi sự hiến lễ dâng lên Chúa bằng tuyên nhớ lại sự đồng hành ấy.

Chính sự đồng hành của Thiên Chúa làm nên lịch sử dân Người, mà vào thời cuối cùng không phải chỉ bằng dấu lạ điềm thiêng, không phải chỉ là bàn tay mạnh hay cánh tay hùng, đích thân Con Thiên Chúa đã đến cư ngụ giữa dân Người để hoàn tất lịch sử Thánh. Đức tin giờ đây không còn phải mò mẫm qua những biến cố hay những lòi rao giảng xa xôi, mà đã đụng chạm tới một con người bằng xương bằng thịt. Một con người đã sinh ra, đã ngang qua cái chết như mọi người để đi vào sự sống vĩnh cửu. Đức Tin cuối cùng vẫn là Tin Thiên Chúa bằng ân huệ cuối cùng tuyệt đối đã cắm lều ở ngay trong cuộc sống mỗi con người trong Đức Giêsu Kitô.

Cơn cám dỗ từ khởi đầu ở vườn điạ đàng lại tái diễn với Đức Giêsu trong hoang điạ, là cơn cám dỗ của mọi người mọi thời : con người sống không cần và không có Thiên Chúa trong cuộc đời. Khi cám dỗ Đức Giêsu truyền cho đá thành bánh, hay khi cám dỗ Đức Giêsu làm bá chủ muôn dân nước, hoặc cám dỗ Người gieo mình xuống từ nóc đền thờ, cho dù đánh vào những khát vọng sâu kín về tiền tài, danh vọng hay lạc thú, thì cái ý nghĩa đích thật của mọi cám dỗ ấy cũng chỉ là không thấy, không chấp nhận, không đồng hành với Thiên Chúa trong cuộc sống. Nói khác đi chính là phủ nhận Thiên Chúa đã cắm lều ngay trong cuộc đời mình. Như thế là tiêu hủy mọi lòng Tin.

Đức Giêsu hôm nay có một chọn lựa dứt khoát, Ngài không cần biết cơm bánh, quyền năng hay lạc thú, Ngài chỉ tập trung ý chí mình vào duy Lời Thiên Chúa và lựa chọn làm theo Lời Người. Đó là khởi điểm cho cuộc chiến thắng cuối cùng trên Thánh Giá : ở đó, Người sung sướng để thưa lên với Cha "Mọi sự đã hoàn tất". Đời Người là cuộc đời hoàn thành Ý Cha, Ý luôn luôn hiện diện và Yêu thương Người, Ý sẽ tôn vinh Người, Ý luôn đồng hành với Người trong ngay cả lúc khốn cùng nhất : chính lúc Người chết đi là lúc Phaolô nghe được lời tấn phong của Chúa Cha dành cho Người "Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con". Đời sống mỗi con người cũng như đời sống Đức Giêsu cũng còn chính là sự sinh thành cực nhọc mà Thiên Chúa sinh ra chúng ta vào sự sống vĩnh hằng. Đấy là ý nghĩa đích thật của mọi ân huệ Thiên Chúa trao ban.

Suy nghĩ như thế đem lại cho chúng ta một niềm tin hoàn toàn mới mẻ đứng trước mọi biến cố và mọi thử thách.

          LM. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

TU ĐỨC                          

SỐNG TINH THẦN SA MẠC.

 

 

Luca 4,1-13

Bài Phúc Âm hôm nay đúng là một tin mừng cho tôi và cho những ai đang muốn Phúc Âm hóa chính bản thân mình.

 

Con người của tôi không phải chỉ là lương tâm tôi, cũng không chỉ là tâm hồn tôi, mà là tất cả hồn xác tôi, với những cấu trúc tâm-sinh-lý mang sẵn định hướng, với những tính tình dự trữ sẵn các tiềm năng tốt xấu, với những thói quen đã thành nếp và với một nhân cách rất là riêng biệt.

 

Khi tôi lãnh Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Giải Tội, thì lương tâm tôi được sạch tội. Khi tôi học hỏi về Chúa, thì trí khôn tôi được hiểu biết thêm về Chúa. Nhưng không vì thế mà những lớp tiềm thức và vô thức của tôi đều qui phục luật Chúa. Trong tôi vẫn có những vùng sâu tâm-sinh-lý còn dày đặc bóng tối, bao che những lực lượng phản Phúc Âm, sẵn sàng lôi kéo tôi vào đường lầm lạc tội lỗi. Vì thế, tôi cần đẩy mạnh hơn nữa việc Phúc-Âm-hóa chính bản thân tôi. Tôi sẽ đẩy mạnh theo con đường Chúa Giêsu đã đi.

 

Phúc Âm cho thấy, sau khi chịu Phép Rửa trong sông Giôđan, Chúa Giêsu đã tiếp tục hành trình Phép Rửa trong sa mạc. Sa mạc là vùng bao la hoang vắng, không cây cối, không nhà cửa, không có người, không có vật. Chỗ nào cũng chỉ là trời đất bát ngát mênh mông. Chúa Giêsu đã cầu nguyện và chay tịnh trong sa mạc như thế. Hết sức thanh vắng. Cực kỳ khó nghèo. Với thái độ trút bỏ tối đa, với niềm tin cậy và phó thác tuyệt đối.

 

40 ngày trong sa mạc như vậy là một hành trình dài. Nếu gọi hành trình này là một thứ Phép Rửa của sa mạc, thì Phép Rửa đó có tính cách bổ túc cho Phép Rửa của nước. Nó thấm sâu, thấm dần vào các tầng lớp của con người. Con người được ngâm lâu trong Phép Rửa của sa mạc, sẽ có những chuẩn bị xứng đáng và thuận lợi hơn để lãnh nhận nhiều ơn Phúc Âm hóa.

 

Phép Rửa đó thực hữu ích cho tôi. Nhưng tôi không mơ tưởng đến một sa mạc, mà tôi không bao giờ tới được. Điều hợp lý đối với tôi là tôi cần sống tinh thần sa mạc. Thực ra, tôi cũng có đôi chút kinh nghiệm về chuyện này. Bởi vì có lúc tôi bị đẩy vào một sa mạc tinh thần, khi tôi bị cô đơn. Có lúc tôi tự tạo ra một sa mạc tinh thần, khi tôi lùi sâu vào nội tâm. Thời gian trong sa mạc tinh thần là những tháng ngày thuận tiện để suy gẫm cầu nguyện, và trút bỏ tối đa cái tôi cũ kỹ.

 

 Tuy vậy, cho dù nhờ cầu nguyện và chay tịnh trong tinh thần sa mạc mà tôi đã tập được nhiều thói quen tốt, đã uốn nắn lại được nhiều khuynh hướng khó khăn, đã nghĩ tới Chúa nhiều hơn. Bởi vì lúc ấy, quỉ sẽ quan tâm đến tôi hơn trước. Các cơn cám dỗ nó dành cho tôi, tuy vẫn giống như các cám dỗ nó đã đưa ra với Chúa Giêsu trong sa mạc xưa, nhưng sẽ được hiện đại hóa. Kẻ cám dỗ tôi sẽ không phải quỉ dữ, mà là những kẻ có tiếng đạo đức, hoặc là chính lòng nhiệt thành của tôi. Nội dung chước cám dỗ sẽ không phải là những gì phàm tục sống sượng, nhưng lại là những đề nghị có vẻ đạo đức. Mục đích đưa ra không những không thấy ghi trong bản 7 mối tội đầu, mà còn nằm trong cả một chương trình lớn mang màu đạo đức. Chẳng hạn thay vì tôi bị cám dỗ biến đá thành bánh, tôi sẽ được khuyến khích ham muốn một thứ quyền lực kinh tế nào đó, với hy vọng sẽ dễ mở rộng Nước Chúa. Thay vì tôi bị cám dỗ lạy quỉ để nắm trọn quyền cai trị thế giới, tôi sẽ được khuyến khích thỏa hiệp với một thế lực xã hội nào đó, để có được một thứ quyền lực chính trị, với hy vọng sẽ dễ bảo vệ và phát triển quyền lợi Hội Thánh.

 

 Thay vì tôi bị cám dỗ nhảy từ đỉnh cao đền thờ xuống mà không hề hấn gì, nhờ quyền phép thiêng liêng, tôi sẽ được khuyến khích hăng say phô trương quyền lực thần thiêng, với hy vọng xây dựng uy tín cho đạo mình. Tất cả để làm sáng danh Hội Thánh của tôi và Thiên Chúa của tôi.

 

Trong những trường hợp như vậy, nếu tôi không cầu nguyện và chay tịnh trong tinh thần sa mạc như Chúa Giêsu đã làm xưa, tôi sẽ không dễ dàng nhận ra đâu là những chước cám dỗ, và cách phải đối phó với những cám dỗ ấy.

 

Để Phúc Âm hóa chính mình, tôi cần sống theo gương Chúa Giêsu đã để lại trong Phúc Âm. Vậy tôi có sống đúng theo gương Chúa Giêsu đã để lại trong bài Phúc Âm hôm nay không?

 

 

ĐGM GB Bùi Tuần

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI   

SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2007 CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC 16

 

Sáng ngày 13-2-2007, Đức TGM Paul Cordes, người Đức, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), đã mở cuộc họp báo tại Vatican để giới thiệu Sứ điệp của ĐTC Biển Đức 16 nhân dịp Mùa Chay sắp bắt đầu từ ngày 21-2 đến 8-4-2007, với chủ đề ”Chúng sẽ nhìn Đấng chúng đâm thâu qua” (Jn 19,37). Sau đây là bản dịch nguyên văn Sứ điệp của Đức Thánh Cha.

Anh chị em thân mến,

”Họ sẽ nhìn Đấng chúng đâm thâu qua ” (Jn 19,37). Đó là đề tài Kinh Thánh hướng dẫn suy tư của chúng ta trong mùa chay năm nay. Mùa chay là thời điểm thuận tiện để học cách ở với Mẹ Maria và Thánh Gioan, người môn đệ yêu dấu, cạnh Đấng ở trên Thập giá, hoàn tất sự hy sinh mạng sống vì toàn nhân loại (cf Jn 19,25). Vì thế, với tâm tình tham gia sốt sắng hơn, trong mùa thống hối và cầu nguyện này, chúng ta hãy nhìn lên Chúa Kitô chịu đóng đanh, khi chịu chết trên đồi Canvê, Ngài đã biểu lộ trọn vẹn cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa. Trong Thông Điệp ” Deus caritas est ” (Thiên Chúa là Tình Thương), tôi đã bàn về đề tài tình thương và nêu rõ hai hình thức cơ bản là Agape và Eros.

Tình thương của Thiên Chúa: Agape và Eros

Từ ” Agape' , xuất hiện nhiều lần trong Tân Ước, chỉ tình yêu tự hiến của một người chỉ tìm kiếm điều thiện hảo cho tha nhân. Trái lại, từ Eros , chỉ tình yêu của một người muốn chiếm hữu điều mà mình thiếu và mong ước kết hiệp với người mình yêu. Tình yêu mà Chúa bao bọc chúng ta chắc chắn là Agape . Thực vậy, con người có thể cho Thiên Chúa điều gì mà Ngài không sở hữu? Tất cả bản chất con người và những gì con người sở hữu đều là do Chúa ban. Vì thế, chính thụ tạo cần đến Thiên Chúa trong mọi sự. Nhưng tình yêu của Thiên Chúa cũng là Eros . Trong Cựu Ước, Đấng Tạo dựng vũ trụ biểu lộ cho dân Ngài chọn như dân riêng, một sự yêu thương đặc biệt vượt lên trên mọi động lực phàm trần. Ngôn sứ Osea biểu lộ sự say mê của Thiên Chúa qua những hình ảnh táo bạo như tình yêu của một người nam đối với một phụ nữ ngoại tình (cf 3,1-3). Về phần Ngôn sứ Ezechiel, khi nói về quan hệ của Thiên Chúa với dân Israel, đã không ngại dùng ngôn từ nồng nhiệt và đam mê (cf 16,1-22). Các văn bản Kinh Thánh ấy chứng tỏ rằng Eros thuộc về chính trái tim Thiên Chúa: Đấng Tối Cao chờ đợi sự ưng thuận nơi các thụ tạo của Ngài như một hôn phu trẻ chờ đợi sự ưng thuận của hôn thê. Đáng tiếc thay, ngay từ khởi thủy, nhân loại bị sự gian dối của Ma quỉ quyến rũ, đã khép kín đối với tình yêu Thiên Chúa trong ảo tưởng của một thái độ tự mãn về một điều không thể có được (cf Gn 3,1-7). Khi com cụm vào mình, Adam xa rời nguồn mạch sự sống là chính Thiên Chúa, và trở thành người đầu tiên trong số ”những người vì sợ chết nên bị cầm giữ trong sự nô lệ suốt đời” (Do thái 2,15). Nhưng Thiên Chúa không chịu thua. Trái lại, sự khước từ của con người là một động chủ yếu khiến Chúa biểu lộ tình yêu của Ngài với tất cả sức mạnh cứu độ.

Thánh Giá biểu lộ tình yêu sung mãn của Thiên Chúa

Chính trong mầu nhiệm Thập Giá mà quyền toàn năng của lòng từ bi Chúa Cha trên đời được biểu lộ trọn vẹn. Để tái thu phục tình yêu của thụ tạo, Ngài chấp nhận trả giá rất cao là Máu Con duy nhất của Ngài. Sự chết, đối với Adam đầu tiên là dấu chỉ tột cùng của sự cô đơn và bất lực, ngay được biến thành hành vi tột đỉnh của yêu thương và tự do của Adam mới. Vì thế, ta có thể quả quyết rất đúng, cùng với thánh Maximô Vị Hiển Tu, rằng Chúa Kitô ”đã chết một cách thần linh, nếu ta có thể nói được như vậy, vì Ngài tự nguyện chết” (Ambigua , 91,1956). Trên Thánh Giá, Eros của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ. Thực vậy, như Pseudo Dionysius đã nói, Eros là sức mạnh ”không để cho người yêu ở lại trong mình nhưng thúc đẩy để để họ trở thành một với người yêu” (De Divinis nominicus , IV, 13: PG 3,712). Có Eros nào điên rồ (N.Cabasilas, Vita in Cristo, 648) hơn là điều đã làm cho Con Thiên Chúa trở thành một với chúng ta đến độ chịu đau khổ vì hậu quả tội lỗi chúng ta như của chính Ngài?”


”Đấng mà họ đã đâm thâu qua”

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy nhìn lên Chúa Kitô chịu đâm thâu qua trên Thánh Giá! Ngài là mạc khải tột đỉnh về tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu vừa là Eros vừa là Agape , chúng không đối nghịch nhau nhưng soi sáng cho nhau. Trên Thánh Giá, chính Thiên Chúa xin tình yêu của các thụ tạo: Ngài khao khát tình yêu của mỗi người chúng ta. Thánh Tôma Tông Đồ đã nhìn nhận Đức Giêsu là ”Chúa và là Thiên Chúa” khi xỏ ngón tay vào cạnh sườn Người. Không lạ gì, nhiều vị thánh đã tìm thấy nơi trái tim Chúa Giêsu biểu hiện cảm động nhất của mầu nhiệm tình yêu ấy. Ta có thể nói đúng rằng mạc khải về Eros của Thiên Chúa đối với con người, trong thực tế, chính là biểu hiện tột đỉnh Agape của Ngài. Nói cho cùng chỉ có tình yêu liên kết sự tự hiến với ước muốn say mê mong được đáp trả, mới gợi lên một niềm vui, làm nhẹ những gánh nặng nhất, Chúa Giêsu đã nói: ”Khi Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta” (Jn 12,32). Câu trả lời mà Chúa nồng nhiệt ao ước từ chúng ta trước tiên là chúng ta đón nhận tình yêu của ngài và để cho mình được lôi kéo đến gần Ngài. Tuy nhiên, chấp nhận tình yêu của Chúa vẫn chưa đủ. Chúng ta cần đáp lại và dấn thân thông truyền tình yêu ấy cho tha nhân. Chúa Kitô ”lôi kéo tôi đến cùng Ngài” để liên kết với tôi, để tôi học yêu thương anh chị em với cùng một tình yêu của Ngài.


Máu và nước

” Họ sẽ nhìn Đấng mà họ đã đâm thâu qua ”. Chúng ta hãy tín thác nhìn cạnh sườn Chúa Giêsu bị đâm thâu qua, từ đó ”máu và nước chảy ra” (Jn 19,34)! Các Giáo Phụ đã coi các yếu tố này như biểu tượng của bí tích Rửa Tội và Thánh Thể. Với nước của Bí tích Rửa tội và nhờ tác động của Chúa Thánh Linh, chúng ta được bước vào tình yêu thân mật của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong hành trình mùa chay, nhớ đến bí tích rửa tội đã lãnh nhận, chúng ta được nhắn nhủ ra khỏi chính mình để cởi mở, tin tưởng phó thác mình vào vòng tay từ bi của Chúa Cha (cf Thánh Gioan Kim Khẩu, Huấn GIáo , 3,14tt). Máu, biểu tượng tình yêu của vị Mục Tử Nhân Lành, đặc biệt chảy tới chúng ta trong Mầu Nhiệm Thánh Thể: ”Thánh Thể lôi kéo chúng ta vào trong hành vi dâng hiến của Chúa Giêsu... Chúng ta được can dự vào năng động hiến dâng của Ngài” (Thông điệp Deus Caritas est, 13). Vì vậy chúng ta hãy sống Mùa chay như một mùa ”Thánh Thể”, trong đó, khi đón nhận tình yêu của Chúa Giêsu, chúng ta học cách thông truyền tình yêu ấy quanh chúng ta, bằng mọi hành động và lời nói. Sự chiêm ngắm ”Đấng mà họ đã đâm thâu qua” sẽ thúc đẩy chúng ta đến độ mở rộng tâm hồn cho tha nhân nhìn nhận những vết thương gây ra cho phẩm giá con người; sự chiêm ngắm ấy đặc biệt thúc đẩy chúng ta chiến đấu chống lại mọi hình thức khinh rẻ sự sống và bóc lột con người, cũng như thoa dịu thảm trạng cô đơn và bị bỏ rơi của bao nhiêu người. Ước gì mùa chay đối với mỗi Kitô hữu là một kinh nghiệm được đổi mới về tình yêu của Thiên Chúa được ban cho chúng ta trong Chúa Kitô, tình yêu mà mỗi ngày chúng ta phải ”trao lại” cho tha nhân, nhất là những người đau khổ và túng thiếu nhất. Chỉ như thế chúng ta mới có thể tham dự trọn vẹn vào niềm vui của Lễ Phục Sinh. Xin Mẹ Maria, Mẹ của tình yêu tươi đẹp, hướng dẫn chúng ta trong cuộc hành trình này của Mùa Chay, hành trình thực sự trở về với tình yêu Chúa Kitô. Anh chị em thân mến, tôi cầu chúc anh chị em một hành trình mùa chay đầy thành quả đốt đẹp, đồng thời thân ái gửi đến tất cả anh chị em Phép lành Tòa Thánh đặc biệt.

Vatican ngày 21-11-2006



Biển Đức 16, Giáo Hoàng

 G. Trần Đức Anh OP chuyển dịch

 

Mùa Chay là dịp để ”tái trở thành kitô hữu”

 

Đức Thánh Cha đã khẳng định như trên trong buổi tiếp trên 11.000 tín hữu và du khách năm châu sáng Thứ Tư lễ Tro 21-2-2007. Vì hôm qua Giáo Hội cử hành Lễ Tro bắt đầu mùa Chay Thánh nên trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa của mùa Chay. Đại ý ngài nói:

Anh chị em thân mến. Hôm nay, Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta bước vào mùa Chay, là thời gian suy tư, lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện và đền tội. Đối với các tín hữu đã được rửa tội trong một cách thế nào đó, đây là dịp để tái khám phá ra bí tích rửa tội của mình, để ”tái trở thành kitô hữu”, qua việc thay đổi nội tâm và tiến triển trong sự hiểu biết và tình yêu đối với Chúa Kitô. Đối với từng tín hữu kitô và mọi cộng đoàn giáo hội mùa Chay là thời gian thuận tiện để kiên trì tập tành kiếm tìm Thiên Chúa, bằng cách mở rộng tâm lòng cho Chúa Kitô.

Thập giá mạc khải vĩnh viễn tình yêu và lòng xót thương của Thiên Chúa đối với chúng ta ngày nay, thường qúa lo ra bởi các ưu tư và lợi lộc trần gian mau qua. Ước chi mùa Chay giúp chúng ta sống trở lại kinh nghiệm mới mẻ về tình yêu thương xót của Chúa Kitô. Để bước vào trong mầu nhiệm tình yêu này không có con đường nào khác hơn là con đường của Thập Giá. Chúng ta hãy theo học trường của Chúa Giêsu, để học biết ”tái trao ban” tình yêu Người cho tha nhân, đặc biệt cho những người đau khổ và đang phải sống trong khó khăn. Để chu toàn sứ mệnh này cần phải lắng nghe tiếng Chúa Kitô và dưỡng nuôi mình bằng Thánh Thể.

ĐTC cầu mong mùa Chay cũng là thời gian của Thánh Thể, trong đó tín hữu nỗ lực tham dự vào hy lễ của bí tích Thánh Thể một cách sậu đậm và sốt sắng hơn. Ngài xin Mẹ Maria Đấng đã chia sẻ cuộc khổ nan đớn đau của Con Thiên Chúa, nhưng cũng đã sống kinh nghiệm niềm vui của sự phục sinh, đồng hành với tín trong mùa Chay này hướng về mầu nhiệm Phục Sinh vén mở cho thấy tình yêu cao vời của Thiên Chúa.

Trước đó ĐTC đã đề cập tới lý do cái chết của Chúa Giêsu. Con người đã được tạo dựng để là bạn của Thiên Chúa. Nhưng tội nguyên tổ đã bẻ gẫy liên hệ tin tưởng và yêu thương đó và khiến cho nhân loại không có khả năng hiện thực ơn gọi nguyên thủy nữa. Tuy nhiên, nhờ hiến tế cứu độ của Chúa Kitô loài người được cứu chuộc khỏi quyền lực của sự dữ như thánh Gioan viết: ”Thật thế Chúa Kitô đã trở thành nạn nhân đền chuộc tội lỗi chúng ta” (1 Ga 2,2) và thánh Phêro thêm: Người đã chết một lần cho luôn mãi vì tội lỗi chúng ta (x. 1 Pr 3,18). Chính nhờ cái chết đó của Chúa Kitô mà người được rửa tội tái sinh vào cuộc sống mới, và được tái lập trong phẩm giá là con Thiên Chúa một cách nhưng không. Vì vậy trong cộng đoàn kitô tiên khởi bí tích Rửa tội đươc coi như là ”sự sống lại thứ nhất” (x. Cv 20,5; Rm 6,11-11; Ga 5,25-28).

Ngay từ đầu, mùa Chay đã được sống như thời gian chuẩn bị tức thời cho bí tích Rửa Tội, được ban một cách trọng thể trong lễ Vọng Phục Sinh. Tất cả mùa Chay đã là con đường dẫn tới cuộc gặp gỡ lớn lao này với Chúa Kitô, dẫn tới sự chìm ngập trong Chúa Kitô và việc canh tân cuộc sống. Mùa Chay, như thế, là dịp để ”tái trở thành kitô hữu”, qua việc thay đổi nội tâm và hoán cải.

Hoán cải là một lộ trình phải sống liên tục mỗi ngày trong mọi khía cạnh cuộc sống. Như vậy, mùa Chay là thời gian để chúng ta tập luyện ước muốn đến gần Chúa, giật thoát khỏi con tim chúng ta các gốc rễ của sự phù vân để giáo dục con tim ước muốn nghĩa là yêu mến Thiên Chúa. Hoán cải có nghĩa là tìm kiếm Thiên Chúa, đi đến với Chúa, ngoan ngoãn tuân theo các giáo huấn của Đức Giêsu Kitô Con của Người. Hoán cải không phải là một cố gắng để thực hiện chính mình, bởi vì con người không phải là người xây dựng số phận đời đời của mình. Không phải chúng ta đã tạo dựng ra chính mình. Vì thế việc tự thực hiện là một sự mâu thuẫn và cũng qúa ít ỏi đối với chúng ta. Chúng ta có một số phận cao cả hơn. Vì vậy có thể nói hoán cải là tự do yêu thương và chấp nhận tùy thuộc tất cả nơi Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hóa đích thật. Hoán cải là từ bỏ theo đuổi thành công cá nhân mau qua và mọi chắc chắn của con người, để đơn sơ tín thác theo Chúa, để cho Chúa Giêsu trở thành ”tất cả của tôi trong mọi sự”.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói thêm: Trong sứ điệp mùa Chay năm nay tôi đã nhấn mạnh trên tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với con người. Thập giá là sư mặc khải vĩnh viễn tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người thời đại chúng ta. Thiên Chúa là tình yêu và tình yêu Người là bí quyết hạnh phúc của chúng ta. Để bước vào trong mầu nhiệm này của tình yêu không có con đường nào khác ngoài con tự đường mất đi, tự cho đi, con đường của thập giá: ”Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình vác thập giá mỗi ngày mà theo Ta” (Mc 8,34). Đó là lý do tại sao trong khi mời gọi chúng ta suy tư cầu nguyện, phụng vụ mùa Chay lại khuyến khích chúng ta đánh giá cao hơn việc đền tội và hy sinh để khước từ tội lỗi và sự dữ và chiến thắng ích kỷ và thờ ơ. Như thế cầu nguyện, ăn chay, đền tội, làm các việc bác ái cho tha nhân, trở thành các con đường tinh thần cần phải đi để trở về với Thiên Chúa. Đức Thánh Cha cầu chúc mùa Chay thánh là thời gian mọi tín hữu canh tân kinh nghiệm về tình yêu thương xót của Chúa Kitô, Đấng đã đổ máu ra trên thập gía cho chúng ta.

Sáng thứ tư hôm qua đã có hơn 11.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi găp gỡ chung với Đức Thánh Cha Biển Đức XVI. Buổi tiếp kiến đã diễn ra tại hai nơi: trước hết trong đền thờ thánh Phêrô dành cho hơn 3.000 học sinh Italia, sau đó trong dại thính đường Phaolô VI dành cho các nhóm quốc tế đến từ 15 quốc gia Tây Âu, Đông Âu, Bắc Mỹ và Á châu.

Chào các học sinh Đức Thánh Cha nói: ”Các bạn trẻ thân mến, các con hãy nghe lời mời gọi này như thể chính lời Chúa Kitô nói với từng người trong các con và hãy tiếp nhận với lòng quảng đại. Khi trung thành bước đi trên con đường khắc khổ của mùa Chay, các con sẽ có thể ý thức được các nguy cơ mà cuộc sống tinh thần của các con găp phải, và các con sẽ được khuyến khích tươi vui sống ơn gọi kitô”.

Chào nhóm các Giám Mục vùng Umbria, Trung Italia, về Roma viếng mộ hai Thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh 5 năm một lần theo giáo luật, ĐTC nói: ”Anh em trong hàng Giám Mục thân mến, Giáo Hội có sứ mệnh đời đời là phổ biến ánh sáng chân lý của Chúa Kitô để nó soi sáng cho con người và rạng ngời lên trong mọi mội trường xã hội. Khi loan báo sứ điệp tin mừng, mỗi cộng đoàn kitô phục vụ con người và thiện ích chung. Ý thức được sứ vụ truyền giáo đó, anh em hãy luôn thúc giục tín hữu được giao phó cho anh em săn sóc mục vụ, tiếp tục nỗ lực đem nhựa sống ơn thánh thấm nhuần các môi trường văn hóa ngày nay. Đây là nhiệm vụ không dễ dàng, nhưng không thể thiếu được” Đức Thánh Cha cũng đã chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau và chúc tất cả một mùa Chay thánh thiện. Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

 

MÙA CHAY LÀ MÙA HOÀ GIẢI

 

     Kính gởi:  Quý cha,

                    Quý nam nữ tu sĩ và chủng sinh,

                    Và toàn thể anh chị em giáo dân,

 

1. Lời mở

Anh chị em thân mến,

Mỗi lần viết thư mục vụ, tôi có dịp cùng anh chị em nhìn lại đời sống giáo phận chúng ta trong những năm qua, dưới các khía cạnh khác nhau, để chúng ta cùng nhau thăng tiến trên con đường sống đạo, sống tốt hơn trong năm mới.

2. Nhìn lại quá khứ với sứ vụ hoà giải.

Nhìn lại gần tám năm qua, nói chung tôi cảm thấy rất phấn khởi vì sự cố gắng của mọi thành phần Dân Chúa  trong giáo phận về nhiều mặt. Tôi ghi nhận một cách đặc biệt sự cố gắng của anh em linh mục và các nữ tu.

Mùa Chay năm nay là thời điểm thuận lợi để chúng ta cùng nhau nhìn lại một khía cạnh quan trọng của đời sống Giáo hội, đó là sứ vụ hoà giải mà thánh Phaolô nói đến một cách thiết tha trong thư thứ hai Côrintô: “Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. Thật vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa” ( 2 Cr 5:18-20 ).

Tất cả chúng ta, đặc biệt là anh em linh mục, đã cố gắng rất nhiều để cùng với tôi xây dựng một giáo phận hợp nhất, tuy chưa được trọn vẹn, vì chúng ta vẫn còn là Dân lữ thứ.

Từ ngày về giáo phận đến nay, một trong những cố gắng không mệt mỏi của tôi là thi hành chức vụ hoà giải mà Thiên Chúa đã trao. Trong khi thi hành chức vụ này, dần dần tôi khám phá thấy một phần rất lớn các xung đột hay rạn nứt giữa con người với nhau phát xuất từ những ngộ nhận. Và một phần công việc của tôi là giải toả các ngộ nhận.

Trong đời sống chung giữa giáo dân, nữ tu, linh mục với nhau có nhiều lúc hiểu lầm, làm cho khó có sự gần gủi và thông cảm. Cố gắng đầu tiên của chúng ta là xích lại gần Chúa, xích lại gần nhau. Trong tám năm qua, tôi thấy rõ ràng thiện chí của mọi người, nhất là của anh em linh mục, đáp lại lời mời gọi của tôi, đã cố gắng xây dựng linh mục đoàn tương đối đoàn kết  thương yêu nhau, dù chưa phải là lý tưởng. Các nữ tu cũng có nhiều cố gắng dẹp bỏ những xích mích cá nhân, phe nhóm, để làm việc với nhau, nhờ đó có niềm vui và sự bình an, có thêm ơn gọi cho hội dòng của mình.

Kinh nghiệm cho thấy rằng chỉ có thể giải toả những hiểu lầm bằng gặp gỡ và đối thoại. Các linh mục đã có nhiều cơ hội gặp gỡ nhau hơn trước, đặc biệt là những lần thường huấn, tĩnh tâm, cũng như những dịp lễ của giáo phận, các ngày lễ Dầu và lễ phong chức linh mục. Giáo phận không còn rời rạc, mà được kết nối với nhau bằng thiện chí và những nỗ lực vươn lên. Chúng ta đã có những mục tiêu chung là kế hoạch năm năm xây dựng linh mục đoàn, rồi sau đó kế hoạch năm năm củng cố các giáo hạt.

3. Đức ái, suối nguồn của hoà giải

Những khó khăn trong việc hoà giải thường phát xuất trước tiên từ những thành kiến có khi rất sai lầm về nhau. Loại khó khăn thứ hai là có nhiều người không chấp nhận được sự khác biệt của tha nhân. Loại khó khăn thứ ba là những lời nói gián tiếp nghe được qua đệ tam nhân, thường là tam sao thất bản, thay vì là trực tiếp gặp gỡ hay lắng nghe nhau.

Trong một vài trường hợp rất hiếm, ngăn trở không vượt qua được chính là thiếu sự tha thứ: người bị xúc phạm cảm thấy không thể nào chữa lành được sự tổn thương quá trầm trọng người khác gây ra cho mình.

Trong Mùa Chay, mọi người chúng ta được mời gọi trước hết hoà giải với Thiên Chúa, Đấng trong Chúa Kitô đã tha thứ tất cả tội lỗi của chúng ta. Chúng ta được mời gọi hoán cải, trở về với Thiên Chúa là Người Cha nhân hậu, mà chúng ta đã rời bỏ vì ham mê chạy theo của cải trần gian, ham mê thức ăn trần thế. Phần lớn chúng ta xa Chúa vì sự yếu đuối. Vậy hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh, Thần lực của Chúa, để chúng ta chiến thắng các cơn cám dỗ, mạnh dạn đứng lên và trở về như nhân vật trong dụ ngôn người con hoang đàng của Tin mừng Luca (x. Lc 15, 11-32).

Nếu thực sự ta trở về với Thiên Chúa là vị Cha chung, ta sẽ dễ dàng xích lại gần với anh chị em, sẽ cảm thấy dễ yêu thương quý mến anh chị em. Không trở về với Thiên Chúa, thì cũng khó trở lại với anh chị em. Cũng có trường hợp sự cứng lòng không tha thứ cho anh chị em là ngăn trở lớn cho sự hoán cải đích thực trở về với Thiên Chúa. Sự hoà giải với anh chị em là chứng từ thực tế cho sự giao hoà với Thiên Chúa.

Động cơ của sự hoà giải trong một thế giới đầy xung đột chắc chắn phải là đức mến như thánh Phaolô mô tả trong chương mười ba thư thứ nhất Côrintô: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 4-7).

Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta chỉ có thể làm chứng cho Thiên Chúa bằng tình yêu, không có cách nào khác. Tình yêu là thực tại cao đẹp nhất, nhưng cũng đòi hỏi hy sinh nhiều nhất. Có nhiều người cũng muốn yêu thương, nhưng không can đảm hy sinh, vì thực chất tình yêu nơi họ chưa được thanh luyện, còn chứa đựng tính ích kỷ và những thứ đam mê xấu khác. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa thanh luyện tình yêu trong chúng ta bằng Thánh Thần Người ban cho chúng ta.

Một trở ngại khác rất khó vượt qua để hoà giải là sự tự ái. Sự tự ái là dấu hiệu con người cũ còn rất mạnh nơi chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta chết đi cho con người cũ, đóng đinh tính xác thịt vào thập giá như lời nói của thánh Phaolô, thì tình yêu và sự sống mới mới làm chủ nơi con người của chúng ta. Mùa Chay giúp chúng ta thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, cùng chết với Chúa để cùng sống lại với Người.

4. Những khó khăn hiện tại và ơn tha thứ

Đời sống gia đình hôm nay có rất nhiều nguyên cớ dẫn đến bất hoà, chia rẻ, rồi đổ vỡ. Hơn bao giờ hết, anh chị em phải cảnh giác với những nguyên do có thể gây đổ vỡ. Nhưng quan trọng không kém là anh chị em hãy sẵn lòng tha thứ, hãy bao dung tối đa. Sự bao dung không đồng hoá với sự mềm yếu. Có những bậc cha mẹ hay vợ chồng rất mềm yếu, và chính sự mềm yếu là nguyên do dẫn tới đổ vỡ. Chỉ có trái tim quả cảm mới bao dung với tha nhân.

Ngày hôm nay, trong đời sống gia đình, trong Giáo hội và ngoài xã hội, chúng ta được mời gọi tha thứ không phải bảy lần mà bảy mươi lần bảy như lời Chúa dạy, thì mới có được sự bình an. Thiên Chúa cũng như thực tế của đời sống hôm nay đòi hỏi người tín hữu phải hoà giải không ngừng với tha nhân, những người sống chung, những người làm việc chung, những người có quan hệ với ta cách này hay cách khác.

5. Đức thánh cha Bênêđictô và tinh thần hoà giải

Đức thánh cha Bênêđictô XVI đang làm gương cho cả Giáo hội và thế giới về tinh thần hoà giải. Người lắng nghe tất cả, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả như lời thánh Phaolô. Người không mềm yếu, đầu hàng trước những sự công kích, nhưng luôn sẵn sàng làm chứng cho Chúa và bảo vệ chân lý, trong tinh thần đối thoại chân thành không áp đảo.

Vì là một con người hoà giải, Đức thánh cha quả thật là sứ giả của hoà bình, và tất cả thế giới trong đó có Việt Nam, đang trông chờ vào người. Đức thánh cha là con người quả cảm, dám nói sự thật, dám lội ngược dòng, và cũng là con người bao dung, khả ái, đang nối vòng tay lớn với mọi người, mọi tôn giáo, mọi nền văn hoá, mọi thể chế chính trị.

Đức thánh cha còn là một con người rất trầm tĩnh và tự chủ. Những đức tính này rất cần thiết cho các chủ chăn, các nhà lãnh đạo trong một thế giới đầy bạo lực và hiểm nguy như thế giới ngày hôm nay. Các đức tính nhân bản và các hoạt động của ngài hiện nay cũng có thể minh hoạ cho chúng ta ý nghĩa của sứ điệp Mùa chay: Mùa chay là mùa chuẩn bị cho ơn hoà giải. Anh chị em hãy đặc biệt lưu tâm tới bí tích hoà giải, hãy đi xưng tội thật chân thành và sốt sắng trong Mùa chay.

Còn một điều rất quan trọng nữa mà chúng ta phải làm, đó là điều Đức thánh cha nhắc cho chúng ta trong sứ điệp ngày thế giới hoà bình: không những mỗi người chúng ta đều phải ý thức về phẩm giá của mình, mà còn phải bận tâm tôn trọng phẩm giá người khác. Rất nhiều khi, vô tình hay hữu ý, chúng ta xúc phạm phẩm giá của nhau. Ai trong chúng ta cũng cần sự tha thứ của người khác. Chúng ta tha thứ cho nhau, nhưng cần quyết tâm sống tế nhị và tôn trọng lẫn nhau, thì chúng ta mới có thể trở nên sứ giả của hoà bình.

6. Lời kết - hướng về tương lai với ân sủng

Anh chị em thân mến,

Bắt đầu mùa Chay năm nay cũng là lúc chúng ta đang bước vào một năm mới, năm Đinh Hợi 2007. Với ước mong ơn hoà giải và tha thứ sẽ dẫn anh chị em vào một mùa Chay thánh thiện và một mùa Xuân ân phúc, tôi “Nguyện Chúa chúc lành và gìn giữ anh (chị) em. Nguyện Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (chị) em và dủ lòng thương anh (chị) em. Nguyện Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (Ds 6,24-26).

                                                               

 

                                                                                                             Mỹ Tho, ngày 29-01-2007

                                                                                                          Giám Mục Giáo Phận Mỹ Tho

                                                                                                            + Phaolô BÙI VĂN ĐỌC

 TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

TÌM HIỂU VỀ MÙA CHAY

James Akin

 

H. Mùa Chay là gì?

 

T. Theo lịch sử, Mùa Chay là thời kỳ 40 ngày trước Phục Sinh,không tính các ngày Chúa Nhật. Mùa chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào Thứ Bảy Tuần Thánh (ngày trước Chúa nhật Phục Sinh). Trong những năm gần đây, điều nầy được sửa đổi sao cho bây giờ nó kết thúc với Lễ Chiều Thứ Năm Tuần Thánh, để dọn đường cho Tam Nhật Thánh.

 

H. Tại sao các ngày Chúa Nhật không được tính vào số 40 ngày?

 

T. Bởi vì Chúa Nhật là ngày mà Đức Kitô sống lại,khiến cho ngày ấy thành một ngày không thích hợp cho việc ăn chay và than khóc tội lỗi. Trong ngày Chúa Nhật, chúng ta phải cử hành cuộc sống lại của Đức Kitô để cứu chuộc chúng ta.Chính là ngày thứ Sáu mà chúng ta tưởng niệm cái chết của Người vì tội chúng ta. Các ngày Chúa Nhật trong năm là những ngày cử hành và các ngày thứ Sáu là những ngày sám hối.

 

H. Tại sao 40 ngày đó lại được gọi là Mùa Chay?

 

T. Chúng được gọi là LENT (Mùa Chay), vì đó là tiếng Anh Cổ để chỉ mùa Xuân, mùa trong năm trong thời gian đó họ nghỉ. Đó là một nét độc đáo trong tiếng Anh. Trong hầu hết các ngôn ngữ khác, tên của nó là từ phát sinh của tiếng Latinh “bốn mươi” (quadragesima).

 

H. Tại sao Mùa Chay lại kéo dài 40 ngày?

 

T. Bởi vì 40 ngày là một con số truyền thống của kỷ luật, lòng mộ mến và chuẩn bị trong Kinh Thánh. Vì thế Ông Mai-Sen đã ở trên núi Thiên Chúa 40 ngày (Xh 24: 18; 34:28); những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (Ds 13: 25); Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (I V 19:8); Ninive đã được cho 40 ngày để sám hối (Gn 3:4) và quan trọng nhất, trước khi đảm nhận nhiệm vụ rao giảng,Chúa Giêsu đã qua 40 ngày trong nơi hoang mạc để cầu nguyện và ăn chay (Mt 4:2)

 

Do bởi Mùa Chay là một thời kỳ để cầu nguyện và chay tịnh,nó hợp cho các Kitô-hữu để bắt chước Đức Chúa của họ với thời kỳ 40 ngày. Đức Kitô đã dùng một thời gian kéo dài 40 ngày cầu nguyện và chay tịnh, để chuẩn bị cho sứ mệnh của người, mà cực điểm là cái chết và sự sống lại của Người,và do vậy nó thích hợp cho các Kitô-hữu bắt chước Chúa Giêsu với thời kỳ 40 ngày ăn chay và cầu nguyện để chuẩn bị cử hành đỉnh cao nhất của sứ mệnh Người, Thứ Sáu Tuần Thánh (ngày Chúa Giêsu chịu đóng đinh) và Chúa Nhật Phục Sinh (ngày Chúa Giêsu sống lại) Vì vậy GIÁO LÝ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO nhận định: “Vì chúng ta không có một thượng tế không có khả năng cảm thông yếu đuối của chúng ta,nhưng là một thượng tế trong mọi khía cạnh để bị thử thách như chúng ta,ngoại trừ tội lỗi (Dt 4:15). Bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, Giáo Hội liên kết mỗi năm với Mầu Nhiệm Chúa Giêsu trong hoang địa” (số 540).

 

H. Muà Chay bắt đầu khi nào?

 

T. Mùa Chay bằt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro,là ngày trong đó người tín hữu được xức tro lên trán theo hình thập giá. Đó cũng là ngày ăn chay và hãm mình.

 

H. Ngày ăn chay và hãm mình là gì?

 

T. Theo giáo luật hiện hành trong nghi lễ Tây Phương của Giáo Hội,một ngày ăn chay là một ngày trong đó người Công-giáo từ 18 cho đến 60 tuổi bị bắt buộc phải giữa một sự chay tịnh giới hạn. Trong nước nầy, người ta có thể ăn một bửa suy nhất bình thường và hai bửa ăn qua loa,bao lâu những bửa ăn qua loa nầy không thêm vào một bửa ăn thứ nhì. Trẻ em không bị buộc phải ăn chay, nhưng cha mẹ chúng phải bảo đảm chúng được giáo dục thích hợp trong việc thực hành chay tịnh tinh thần. NHững người đang uống thuốc cần ăn nhiều hơn,thì có thể được miễn trừ dễ dàng khỏi việc ăn chay, do chủ chăn của họ.

 

Một ngày kiêng thị là một ngày trong đó người Công-giáo từ 14 tuổi hoặc già hơn bị buộc không được ăn thịt (theo luật hiện hành ở Mỹ Châu, thì cá, trứng, các chế phẩm từ sữa,những phụ gia hoặc thực phẩm chế biến từ mỡ động vật được cho phép trong nghi lễ Tây phương, mặc dầu không được phép trong nghi lễ Đông phương). Lần nữa những người ăn theo chế độ được dễ dàng miễn trừ.

 

H. Có chăng một căn bản Kinh Thánh cho việc kiêng thịt như là một dấu hiệu sám hối?

 

T. Có đấy. Sách tiên tri Daniel nhận định:

 

“Trong năm thứ ba đời vua Cyrius xứ Ba Tư…Tôi, Daniel, than khóc ba tuần. Tôi đã ăn không chọn lựa thực phẩm; không có thịt hoặc rượu dính môi và không dùng nước thơm cho tới khi kết thúc ba tuần” (Dn 10: 1 – 3)

 

H. Chẳng phải việc kiêng thịt là một trong những “chủ thuyết của ma qủy” mà Thánh Phao lô đã cảnh báo trong thư thứ nhất gửi Timôthê 4: 1 – 5 đó sao?

 

T. Khi Thánh Phaolô cảnh cáo những người “ngăn cấm dân chúng cưới xin và ra lệnh cho họ kiêng một số thức ăn”,Ngài nhớ đến dân chúng với niềm tin Manisê rằng tình dục là sai lạc và một số thực phẩm như thịt,tự bản chất là trái đạo đức (vì vậy là lý tưởng tinh thần của nhiều thành viên Thời Mới hiện đại là sống độc thân và ăn chay,như trong các tôn giáo Đông phương).

 

Chúng ta biết rằng Thánh Phaolô bận tâm về những người dạy rằng tính dục và một số thực phẩm tự bản chất là trái đạo đức, vì Ngài nói với chúng ta rằng có “những thức ăn mà Thiên Chúa tạo dựng để được đón nhận với lời tạ ơn bởi những kè tin và những kẻ biết sự thật. Bởi vì mọi sự do Thiên Chúa dựng nên đều tốt lành và không có sự gì bị vứt bỏ,nếu nó được đón nhận với lời tạ ơn,bởi vì nó được thánh hoá bởi lời của Thiên Chúa và cầu nguyện” (1 Tm 4: 3b – 5).

 

Tình dục và tất cả mọi thứ thực phẩm đều là những sự tốt đẹp (vì vậy mà Giáo Hội Công-giáo xem hôn nhân là một bí tích và thành thật khuyên nhủ các tín hữu ăn uống, và chính vì sao mà nó thích hợp khi từ bỏ chúng mà như là một phần của kỷ luật tinh thần. Vì vậy Daniel từ bỏ thịt (cũng như rượu,một biểu tượng khác của vui chơi) và Thánh Phaolô tán thành việc thực hành độc thân tạm thời để dấn thân và một kỷ luật tinh thần đặc biệt (1 Cor 7:5). Bằng việc từ bỏ những điều tốt và từ chối chúng cho chúng ta,chúng ta khuyến khích một thái độ khiêm nhường,tự do không bị lệ thuộc vào chúng,chăm nom kỷ luật tinh thần của ước ao dâng hy sinh cá nhân,hầu nhắc chúng ta nhớ về sự quan trọng của những của ăn thiêng liêng hơn các của ăn trần thế.

 

Thực ra,nếu có một mục tiêu đủ quan trọng,Thánh Phaolô đã thường xuyên khuyên bảo từ bỏ hôn nhân và thịt. Vì vậy chính Ngài sống độc thân (1 Cor 7:8),Ngài khuyên nhủ như thế với các thừa tác viên (2 Tm 2: 3 – 4) và cũng khuy6en bảo điều đó cho những người không kết hôn sao cho họ có thể tận hiến trọn vẹn hôn cho Chúa (1 Cor 7: 32 – 34) trừ khi nếu vì làm như vậy mà khiến họ sa vào cám dỗ nặng nề hơn (1 Cor 7: 9). Cũng tương tự, Ngài khuyên bảo từ bỏ thưởng xuyên thịt nếu việc ấy ngăn ngừa người khác khỏi phạm tội (1 Cor 8: 13).

 

Bởi vậy Thánh Phaolô chắc chắn không có điều gì chống lại độc thân hoặc từ bỏ ăn thịt - ngay cả trên một căn bản thường xuyên – bao lâu không có ai bảo rằng những điều nầy tự bản chất là xấu.

 

H. Dựa vào đâu mà Giáo Hội lấy quyền để thiết lập những ngày ăn chay và kiêng thịt?

 

T. Dựa trên quyền năng của Đức Kitô.

 

Chúa Giêsu đã nói với các lãnh đạo Giáo Hội Người. ”Bất cứ sự gì các con cầm buộc dưới đất,trên trời cũng cầm buộc và bất cứ sự gì các con cởi mở dưới đất, trên trời cũng sẽ cởi mơ” (Mt 16 : 19;18: 18). Cách nói cầm buộc và cởi mở là cách mà các Rabbi dùng để chỉ khả năng thiết lập cầm buộc halakah hay là những luật lệ hành xử cho cộng đoàn những kẻ tin. Vì vậy mà đặc biệt thích hợp rằng việc tham chiếu tới cầm buộc hay cởi mở được thấy trong phúc âm Matthêu, ”Phúc Âm người Do Thái”. Cho nên Bộ Bách Khoa Do Thái nhận định: “CẦM BUỘC hay CỞI MỞ… theo ngôn ngữ giáo sĩ Do Thái chỉ “CẤM và CHO PHÉP”…

 

“Quyền lực của cầm buộc và nới lỏng luôn được các người Pharisêu đòi hỏi. Dưới thời nữ hoàng Alexandra,những người Pharisêu, theo sử gia Josephus (Những chiến tranh người Do Thái 1:5) ”trở thành những người quản lý tất cả mọi việc công cộng đến mức họ vừa được trao quyền khai trừ hoặc nhận lại những ai họ thích, đồng thời vừa nới lỏng vừa trói buộc’… Các trường phái khác nhau có quyền hành “trói buộc và nới lỏng”, nghĩa là cấm đoán hoặc cho phép (Talmud: Chagigah 3b); và họ cũng có thể siết chặt một ngày nào đó bằng việc tuyên bố đó là một ngày chay tịnh (..Talmud: Ta’anit 12a). Quyền hành và quyền bính nầy, được trao cho hội-đồng giáo sĩ Do Thái của mỗi thời kỳ Tòa Án Do Thái tối cao, nhận được sự phê chuẩn và sự thừa nhận cuối cùng từ toà án đạo.

 

“Trong ý nghĩa đó, Chúa Giêsu khi chỉ định các môn đệ là người kế tục mình,đã dùng công thức thân tình (Mt 16,19; 18,18). Qua những lời nầy, Ngài gần như trao cho họ quyền bính y như là thứ Ngài thấy thuộc về các luật sĩ và biệt pháo, những kẻ “buộc những gánh nặng trên đầu trên cổ người khác, nhưng chính họ không động ngón tay ngón chân nào” (Mt 23,2 – 4). Trong cùng ý nghĩa ấy, thư thứ hai của thánh Clêmentô gửi Giacôbê II (“các bài giảng của Đức Clêmentê), Thánh Phêrô được tượng trưng nư đã chỉ định Đức Clêmentê làm người kế vị, khi nói: ”Ta truyền cho ông ấy quyền năng được buộc chặt hay cởi mở, sao cho đối với hết thảy mọi sự Ngài quy định dưới đất, thì trên trời chúng cũng được quy định như thế; vì Ngài sẽ cầm buộc những gì phải bị cầm buộc và cởi mở những gì phải được cởi mở theo luật Giáo Hội”.

 

Vì thế Chúa Giêsu trao cho các Vị lãnh đạo Giáo Hội quyền năng thực hiện halakah đối với cộng đoàn Kitô-giáo. Điều nầy gồm cả việc thiết lập những ngày chay tịnh (như là Thứ Tư Lễ Tro).

 

Để tiếp cận vấn đề từ một góc độ khác,mỗi gia đình có quyền thiết lập những sự sùng bái có tính chất riêng tư gia đình cho các thành viên trong nhà mình. Do vậy nếu cha mẹ quyết định là gia đình sẽ cam kết giữ một hình thức sùng kính đặc biệt nào đó trong một thời gian đặc biệt nào đó (ví dụ đọc Kinh Thánh sau bữa ăn tối), thì con cái sẽ phạm tội nếu bất tuân hoặc bỏ thi hành việc sùng kính ấy mà không có lý do chính đáng. Trong cùng thể thức ấy, Giáo Hội như là Gia đình của Chúa có quyền bính thiết lập việc sùng kính riêng cho gia đình và các thành viên của Giáo Hội sẽ phạm tội nếu không vâng lời hoặc bỏ qua không làm các việc đạo đức ấy mà không có lý do chính đáng (mặc dù dĩ nhiên nếu một người có lý do chính đáng, thì Giáo Hội miễn cho họ ngay tức khắc).

 

H. Ngoài Thứ Tư Lễ Tro, còn có những ngày nào khác trong Mùa Chay phải kiên khem hoặc ăn chay kiêng thịt nữa không?

 

T. Có. Tất cả các ngày Thứ Sáu suốt Mùa Chay là những ngày phả ăn chay. Cũng vậy, Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày Chúa Giêsu chịu đóng đinh, là một ngày phải vừa ăn chay vừa kiêng thịt.

 

Tất cả mọi ngày trong Mùa Chay đều phù hợp cho việc hãm mình và chay tịnh, nhưng Giáo Luật không đòi buộc phải ăn chay trong những ngày nầy. Việc hãm mình chay tịnh như vậy phải là tự nguyện, như một lễ vật tự nguyện.

 

 

H. Tại sao các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay là những ngày chay tịnh?

 

T. Điều đó là vì Chúa Giêsu chết vì tội lỗi của chúng ta trong ngày thứ Sáu, làm cho ngày ấy trở thành một ngày đặc biệt thích hợp để chúng ta than khóc tội mình (cũng giống như ngày Chúa Nhật, ngày mà Chúa Giêsu sống lại để cứu thoát chúng ta,là một ngày đặc biệt thích hợp để chúng ta vui mừng hoan hỉ), bằng việc chúng ta chốI từ những gì chúng ta vui thích. Suốt thời gian còn lại trong năm, người Công-giáo trong nước nầy được phép dùng một hành vi sám hối khác vào ngày Thứ Sáu thay vì chay tịnh, mặc dù tất cả mọi ngày thứ Sáu đều là ngày sám hối,trong đó chúng ta phải làm điều gì đó để diễn tả tấm lòng đau buồn vì tội lỗi chúng ta, giống như mọi ngày Chúa Nhật là những ngày thánh thiện, trong đó chúng ta phải thờ phượng và cử hành hồng ân cứu chuộc vĩ đại của Thiên Chúa.

 

H. Những hành vi sám hối có thích hợp trong những ngày khác suốt Mùa Chay không?

 

T. Có. Vì thế Quy Tắc Giáo Luật nhận-định: “Tất cả các ngày thứ Sáu quanh năm và thời gian Mùa Chay đều là những ngày mang ý nghĩa sám hối và thời gian ở khắp nơi Giáo Hội toàn cầu” (CIC 1250).

 

H. Tại sao các hành vi sám hối thích hợp vào thời gian nầy trong năm?

 

T. Bởi vì đây là thời gian chuẩn bị cho việc tưởng niệm cái chết của Đức Chúa vì tội chúng ta và tưởng niệm cuộc phụ sinh của người để cứu chuộc chúng ta. Do vậy đây là thờI kỳ đặc biệt thích hợp để chúng ta sám hối tội khiên mà vì đó Đức Chúa đã chịu chết. Loài người có nhu cầu tâm lý bẩm sinh là than khóc những bi kịch và tội lỗi chúng ta là những thảm kịch thuộc loại to lớn. Do bởi bản tính sa ngã của chúng ta, con người cũng có nhu cầu bố trí những thời kỳ trong đó để tham gia vào ứng xử (đó là lý do tại sao chúng ta có các ngày Chúa Nhật như là một thời gian được bố trí để nghỉ ngơi và làm việc thờ phượng, bởi vì nếu không chúng ta rất có thế quên dành thời gian đủ cho việc nghỉ ngơi và thờ phượng), thì thích hợp để bố trí thời gian cho việc thống hối. Mùa Chay là một trong những thời kỳ được bố trí nầy, vậy!

 

H. Đâu là các sinh hoạt thích hợp cho các ngày thường trong Mùa Chay?

 

T. Từ bỏ một điều gì đó mà chúng ta vui thú,thực hiện những hành vi vật chất và tinh thần để giúp đỡ tha nhân, cầu nguyện,chay tịnh, hãm mình, đi xưng tộI và chung chung là các việc khác để bày tỏ lòng thống hối.

 

H. Thói quen từ bỏ một điều gì đó vì Mùa Chay có bắt buộc không?

 

T. Không. Dù sao, đó cũng là một thói quen bổ ích và cha mẹ hoặc những người trông nom có thể chọn nó để đòi hỏi con cái thực hiện hầu khuyến khích việc rèn luyện thiêng liêng của chúng, đó cũng chính là bổn phận đầu tiên của họ trong việc nuôi dạy con cái.

 

H. Bởi vì các ngày Chúa Nhật không được tính vào 40 ngày Mùa Chay,vậy có áp dụng thói quen từ bỏ một điều gỉ cho các ngày ấy chăng?

 

T. Theo lẽ thường thì không. Dù vậy,bởi vì việc từ bỏ là tự nguyện để khởi đầu, cho nên không có quy định chính thức nào liên quan đến khía cạnh nầy của sự việc từ bỏ. Tuy nhiên,vì các ngày Chúa Nhật là những ngày cử hành, sẽ thích hợp nếu tạm hoãn việc hãm mình Mùa Chay trong các ngày đó rằng, trong một cách thế thiêng liêng và không quá đáng, chúng ta có thể cử hành ngày Phục Sinh của Đức Chúa chúng ta sao cho ngày đó và sự kiện đó có thể tương phản với những ngày khác còn lại của Mùa Chay và những sự kiện khác còn lại của lịch sử. Sự tương phản được làm nổi bật nầy sẽ đào sâu thêm các bài học thiêng liêng mà phần còn lại của Mùa Chay đưa ra.

 

H. Tại sao việc từ bỏ điều gì vì Mùa Chay lại là một thói quen bổ ích?

 

T. Bằng việc chính mình chối từmột điều gì đó mà ta vui thích, chúng ta rèn luyện các ước muốn sở thích của chúng ta sao cho chúng ta không làm nô lệ cho ước muốn của chúng ta. Ví như nuông chiều sở thích ăn uống dẫn tới tính ủy mị thể xác và, nếu nó đủ to lớn,một sự bất lực để thực hiện những tình huống đòi hỏi khăt khe về thể lý, thì sự nuông chiều sở thích ước muốn chung chung sẽ dẫn đến sự ươn ái tinh thần và nếu nó đủ lớn, sẽ làm con ngườI bất lực trước các tình huống đòi hỏi khắt khe về mặt tinh thần, khi những yêu cầu đạo đức đòi buộc chúng ta phải hy sinh những gì đem lại vui thú (ví dụ tình dục trước hôn nhân hoặc không ở trong giới hạn của hôn nhân) hoặc chịu đựng thử thách cam khổ (như là bị khinh miệt hoặc bị bách hại vì đức tin). Bằng việc làm cho ý chí biết tự chủ để chối từ các sở thích khi chúng không sai trái,một thói quen được phát triển cho phép ý chí có thể từ chối những sở thích khi chúng sai trái.

 

H. Có phải việc chối từ sở thích là điều mà tự nó đã là quan trọng?

 

T. Không. Đó chỉ là một phương tiện để đạt cứu cánh. Với việc tự rèn luyện mình chống trả các cám dỗ khi chúng không sai trái, chúng ta tự luyện cho mình chối bỏ các cám dỗ sai trái. Chúng ta cũng bày tỏ sự buồn đau của chúng ta vì sự sa ngã trước các cám dỗ tội lỗi trong quá khứ.

 

H. Ngoài Thứ Tư Lễ Tro khởi đầu Mùa Chay, đâu là các sự kiện chính yếu?

 

T. Có một sự đa dạng những ngày lễ các thánh trùng vào Mùa Chay, và một số trong đó thay đổi từ năm này sang năm khác bởi vì các ngày tháng của chính Mùa Chay cũng thay đổi dựa trên ngày Phục Sinh. Dù thế, các ngày Chúa Nhật trong suốt Mùa Chay tưởng nhớ các sự kiện đặc biệt trong cuộc đời của Chúa chúng ta, như là sự Biến Hình của Chúa và sự Khải Hoàn Vào Thành Giêrusalem trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá, khởi đầu Tuần Thánh. Tuần Thánh đạt đỉnh điểm với Ngày Thứ Năm Tuần Thánh, trong ngày đó Chúa Kitô cử hành Thánh Lễ đầu tiên, Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh,trong ngày đó Chúa chịu đóng đinh và Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh – ngày cuối cùng của Mùa Chay – trong ngày đó Chúa chúng ta năm trong mộ đá trước khi Phục Sinh trong ngày Chúa Nhật Phục Sinh,ngày đầu tiên sau Mùa Chay.

Gia Nhân

 (http://www.gpnt.net)

 

LÒNG HIẾU HOÀ VÀ HIẾU SINH TRONG THƯ MỤC VỤ 2006 - HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

Thư Mục Vụ 2006 chọn Thư Pl 2,8 và Tin Mừng Ga 19,37 làm nền cho lời mời gọi sống đạo. Ở đây cuộc sống đạo rút sức sống và mẫu sống từ Chúa Giêsu: “Sống đạo là đời sống đến từ Chúa Giêsu, quà tặng Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Là Con yêu dấu của Thiên Chúa "Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá" (Pl 2,8) để giao hoà thế gian tội lỗi với Thiên Chúa và làm cho nhân loại trở nên con người mới, con người biết "nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu" (Ga 19,37) để nhận lấy ơn cứu độ.

Hai đoạn Sách Thánh trên làm nổi bật khuôn mặt Chúa Giêsu hiếu hoà và hiếu sinh. Chúa hiếu hoà, Người đã vâng lời Cha cho đến chết để hoà với Cha và giao hoà con người với Thiên Chúa. Chúa hiếu sinh, Người chịu chết cho nhân loại sống. Trong nếp đời thường, làm con người mới, sống hiếu hoà và hiếu sinh theo mẫu sống của Chúa Giêsu đang là thách thức lớn lao với mỗi chúng ta.

LÒNG HIẾU HOÀ

Hiếu hoà là “Bỏ gươm vào vỏ, vì ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”(x. Mt 26,52), là “Bị ai tát má phải hãy giơ cả má trái” (x. Mt 5, 39). Lời dạy của Thày có ngược đời không? Cứ hiếu hoà như Thày, hẳn chẳng còn cạnh tranh thương mại, chẳng nên đấu tranh chống khủng bố và cũng chẳng cần tới những cuộc điều đình, hoà giải vì thường tình bạo lực tất yếu sẽ chiến thắng. Và thực tế đoàn chiên của Thày chẳng bao lâu sẽ được thay thế bằng bầy sói vì như Thày nói, “Thày sai anh em đi như những con chiên tới giữa bầy sói”(x. Mt 10, 16). Nhiều người đặt vấn nạn, sai con chiên vào giữa bầy sói, thực tế có là khích động những con sói say máu?

Nhưng không phải thế, hiểu thế là cắt nát Lời Thày. Vì đòi môn đệ “Bỏ gươm vào vỏ” nhưng Thày cũng quyết liệt đòi môn đệ mỗi người phải sắm gươm, “Ai chưa có gươm phải đi mua gươm”(x. Lc 22,36). Hôm đứng trước toà Philatô, bị một tên lính hỗn láo tát, Thày đã không giơ thêm má kia nhưng nhất định làm cho ra lẽ, “Nếu tôi nói sai, xin cho biết sai chỗ nào. Còn nếu tôi nói đúng, tại sao tát tôi?” (x. Ga 18,23). Hiếu hoà rõ ràng không là đầu hàng bạo lực nhưng là trường kỳ kháng chiến chống lại sự dữ.

Đức Gioan Phaolô II đã đặt nền cho thông điệp Ngày Hoà Bình Thế Giới năm 2005 trên lời Thư Phaolô: “Đừng để sự dữ lấn lướt, nhưng hãy chiến thắng sự dữ bằng điều thiện” (Rm 12,21). Sự dữ không bao giờ bị đánh bại bởi sự dữ; một khi đã chọn vào con đường đó, thay vì khuất phục sự dữ, ta lại bị sự dữ đánh gục. Vị Tông Đồ này đem đến một sự thật nền tảng: hòa bình là thành quả của một cuộc chiến lâu dài và cam go mà chỉ có thể thắng khi sự dữ bị khuất phục bởi điều thiện (SĐHB năm 2005, số 1).

A/ “Ai Tát Má Phải, Có Giơ Cả Má Trái”

Al Mamum ở Bagdad có một con ngựa tuyệt đẹp. Một lái buôn ở bộ tộc Omah thèm muốn con ngựa này, ông xin đổi cả bầy lạc đà lấy con ngựa quí đó nhưng Al Mamum không chịu. Một buổi sáng, gã lái buôn rình biết Al Mamum sắp cưỡi ngựa đi xa, gã giả trang người ăn xin đói khát nằm gục bên vệ đường. Al Mamum không đành lòng bỏ đi nên dừng ngựa có ý rước ‘người ăn xin’ lên ngựa đưa về một quán trọ. Gã ‘ăn xin’ thều thào, “Tôi không cất nổi đôi chân, phiền ngài xuống ngựa đỡ tôi một tay”. Lợi dụng lúc Al Mamum sơ ý, tên lái buôn cướp ngựa phóng chạy. Al Mamum cố sức đuổi theo gào thét xin một ân huệ. Khi chạy được khoảng cách đủ an toàn, gã lái buôn dừng ngựa quay lại, “Ông muốn gì? Ông đã ăn cướp ngựa của tôi, xin ông giữ kín đừng kể ai biết bằng cách nào ông đoạt được con ngựa này,/ Tại sao?/ Vì ngày nào đó có ai thực sự kiệt sức giữa đường, vì chuyện ông kể, họ có thể bị bỏ mặc! (truyện cổ).

Tuyệt vời, Al Mamum không tiếc con ngựa nhưng tiếc lòng người nghi ngại nhau. Đúng là “bị tát má phải, Al Mamum đã giơ cả má trái”, lòng hiếu hoà của ông rất tế nhị, sâu sắc, không hận hờn, không thách thức, chỉ mong có hoà bình đích thực. Nhưng đâu là hoà bình đích thực? Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI giải thích: “Thật sự những từ ngữ “hoà bình đích thực” có ý nghĩa gì? Để trả lời thích đáng câu hỏi này, chúng ta phải hiểu hoà bình không thể chỉ giản lược vào sự vắng bóng xung đột vũ trang, nhưng cần được hiểu như là “kết qủa của một trật tự đã được chính Thiên Chúa, Đấng Tạo Lập, ghi khắc vào xã hội loài người, là kết quả của một trật tự đã được trù hoạch do tình yêu Thiên Chúa (SĐHB năm 2005, số 3).

Rõ ràng hoà bình không phải sáng kiến riêng ai, không thuộc trần thế này nhưng là thành quả của trật tự do tình yêu Thiên Chúa hoạch định. Trật tự ở đây là “Yêu thương là luật tối thượng” (x. Mc 12, 29-31). Từ đây Thày dạy chúng ta hiếu hoà, “Ai tát má phải, hãy giơ cả má trái”. Đây là nếp sống của con người mới, Thánh Gioan gọi là con người biết "nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu" (Ga 19,37). Gioan muốn nhấn mạnh, Thày đúng là người mẫu hoà bình. Thày không chỉ hoà với người hiếu hoà nhưng còn hoà với cả người bất hoà, những người không ngần ngại đâm chém cả Thày! Đức Gioan Phaolô II khẳng định, “Không có hòa bình nếu thiếu công lý, không có công lý nếu thiếu hoà bình (đề tài SĐHB năm 2002).

Bức Thư Mục Vụ 2006 cũng đồng tình, lòng hiếu hoà trong thực tế có thể vướng mắc ‘những hệ luỵ’ và xin mọi người trở về với lương tâm ngay chính: “Trong xã hội hiện nay, đôi khi nhu cầu sinh sống và phát triển đã kéo theo những hệ lụy làm cho lương tâm con người bị sai lệch hoặc bị mất phương hướng, mỗi Kitô hữu cần nêu gương học hỏi và thể hiện lương tâm ngay chính tại gia đình cũng như giữa nơi mình sống” (TMV năm 2006, số 5).

Vì gắn bó với công bình, lòng hiếu hoà không bao giờ là thoả hiệp dễ dãi chỉ mong tạo bầu khí hoà hoãn. Thày hiếu hoà cho đến chết nhưng cũng quyết liệt chống lại đến cùng ‘cái tát bất công trước toà Philatô’ (x. Ga 18,22), không dễ dãi bỏ qua nhưng hỏi cho ra lẽ, “Tại sao đánh tôi?” (x. Ga 18,23). Câu hỏi đã biểu hiện cuộc đấu tranh chống bất công như điều kiện để có hoà bình. Nói khác Thày sẵn lòng hoà nhưng hoà trong trật tự như Thánh Augustinô diễn tả hoà bình như là ‘tranquilitas ordinis’, sự an định của trật tự (De Civitate Dei, XIX, 13, trích theo SĐHB năm 2005, số 6).

Đời thường, trước những ‘cái tát’ của các tay khủng bố, chúng ta không thể ‘giơ cả má trái’ nhưng phải hỏi cho ra lẽ, làm cho ra chuyện. Đã hẳn, lẽ ở đây không là lý lẽ của bạo lực nhưng là lẽ công bình của lương tâm và chuyện ở đây không là chuyện gây hấn nhưng là chuyện hành động cho công bình. Riêng Cha Rey Mermet tác giả của bộ Croire lại muốn hiểu lời Thày theo nghĩa văn từ. Cha giải thích, ‘giơ cả má trái’ là lời mời gọi sống lý tưởng Tin Mừng. Trong trường hợp bị tát, ai dám, cứ ‘giơ cả má trái’ nhưng quan trọng là giơ má của mình, xin đừng giơ má của người.

Bạo lực trong gia đình

Bà Trần Thị Nghĩa, Chánh án Toà án Dân sự Hà Nội đã xác định: “70% vụ ly hôn do phụ nữ đứng đơn vì không chịu nổi bạo hành: năm 2004 và 2005, biểu đồ xét xử tại toà cho thấy, mức độ tăng về số lượng các vụ ly hôn trong 6 tháng đầu năm 2005 so với 2004 không quá mạnh mẽ về tốc độ nhưng tính chất của các vụ ly hôn thì nghiêm trọng hơn, khoảng 70% các vụ ly hôn là do phụ nữ đứng đơn.

Tình tiết mới trong các vụ án về gia đình là bạo lực gia đình (BLGĐ), trong đó là các vụ đánh đập ngược đãi phụ nữ đã xen vào hầu hết các vụ ly hôn. Nếu như các nguyên nhân như vợ cả, vợ lẽ, ngoại tình, kinh tế, mâu thuẫn gia đình như mẹ chồng, nàng dâu, tính tình không hợp chiếm đa số, thì nay kèm theo các nguyên nhân BLGĐ: ngoại tình + BLGĐ, khó khăn kinh tế + BLGĐ, mâu thuẫn do tính tình không hợp + BLGĐ...” (Báo Phụ Nữ ngày 22.7.05).

Cũng về BLGĐ, nghiên cứu tại VN năm 2005 của tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) đã đưa ra kết quả: Có khoảng 20-25% các gia đình VN có bạo lực trên cơ sở giới; 66% vụ ly hôn ở VN có liên quan đến bạo lực và cứ 6 phụ nữ thì lại có một người là nạn nhân của bạo lực gia đình (Mai Tâm, Báo Phụ Nữ tháng 10.06). Đàng khác theo Thống Kê của nghành toà án trong 5 năm (2001-2006) tại 29 thành phố có 775 vụ án liên quan đến BLGĐ được xét xử, trong đó số vụ án ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng chiếm 43% (Báo PN, 3.11.06).

Riêng trong các gia đình Công Giáo, đạo lý Chúa là điểm tựa vững chắc cho nhiều gia đình trong cơn giông tố. Đồng thời niềm cảm thông và những lời chia sẻ chân thành của Cha sở và các anh chị em trong xóm đạo cũng là sức khích lệ lớn cho các gia đình trong cảnh xung đột nên con số ly dị nói chung không quá cao. Tuy số ly dị không cao nhưng BLGĐ đặc biệt tại các khu thị tứ vẫn là mối quan ngại lớn của Giáo Hội.

Để đối phó với bi kịch BLGĐ nhiều họ đạo đổi mới hướng tổ chức các lớp giáo lý hôn nhân. Thay vì chỉ nhắm chuẩn bị cho các cặp vợ chồng trẻ hiểu biết đạo lý gia đình, các lớp hôn nhân còn hướng tới cuộc sống đạo của gia đình họ sau hôn nhân nhờ tổ chức các cuộc gặp gỡ, trao đổi về cuộc sống gia đình, tiếp tục duy trì mối liên hệ giữa các học viên, giúp họ cảm thông và hoà giải với nhau. Trong cuộc Gặp Gỡ Các Giảng Viên Giáo Lý Về Gia Đình (FABC-OESC) trong bài trình bầy về quan điểm của giáo hội với giảng viên giáo lý, Dr. Steven Slaraju đã xác nhận: “Các giảng viên giáo lý không chỉ nhắm hướng dẫn các học viên hiểu biết giáo lý về đức tin hoặc chỉ nhắm chuẩn bị họ lãnh nhận các bí tích. Nhưng giảng dạy giáo lý là một tiến trình suốt đời trở về và trưởng thành trong hiểu biết và tương giao với Bản Thân Chúa Giêsu Kitô. Điều đó có nghĩa giảng viên giáo lý không nên và cũng không thể bị giới hạn vào một khuôn khổ không- thời gian, cũng không bị hạn chế trong một tầm mức tuổi đời hay một khuôn vực nào của người dân”.

Có người bạn vừa ghé một đám tang, anh kể, cảnh đám tang rất tẻ lạnh. Bố chết nhưng hai con trai lớn vẫn đi chẻ củi thuê ngoài vựa và cô chị lớn còn đi xe xuống Tân Hiệp cất giỏ lác về bán chợ Bình Tây. Đám tang chỉ quanh quẩn vài người con nhỏ. Người ta kể, hồi ông bố nằm liệt, những người con lớn chia phiên nhau lo cho bố. Đến phiên anh lớn trực đút cơm cho bố. Anh nói với bố giọng hè phố, “Mẹ ông, có nuốt hay không thì bảo”. Hàng xóm biết, thuở trước hai ông bà còn sống, cả hai vẫn dắt nhau đi ăn hủ tíu Nam Vang mỗi sáng, để mặc 8 đứa con chẳng có gì bỏ bụng. Mấy người trong xóm đạo tới thăm nói giọng ngậm ngùi, “Tội nghiệp! Chúa định cho hai ông bà vác thánh giá nặng quá”. Hẳn chúng ta không thể đổ lỗi cho Chúa định liệu chuyện gia đình này, nhưng phải hiểu như lời Thày, “Chẳng ai tìm được trái vả nơi bụi gai” (x. Lc 6,44).

B/ Đưa Chiên Vào Giữa Bầy Sói Có Là Khích Động Những Con Sói?

Lời tiên tri Isaia thuở nào được Thày dẫn trong Tin Mừng bị nhiều người coi là viễn vông, không tưởng, “Có một ngày trẻ em thọc tay vào hang rắn lục, chiên giỡn với sói, bê sống chung với sư tử” (x. Is 11,8). Ai dám mơ sấm ngôn này có ngày thành hiện thực? Vậy đó mà chính Thày cũng đòi môn đệ tin và sống đúng tinh thần sấm ngôn Thày đã dẫn, Thày nói: “Thày sai anh em đi như chiên vào giữa sói rừng” (x. Lc 10,3). Dĩ nhiên nếu sói vẫn là sói và chiên cứ là chiên chẳng bao lâu đoàn chiên của Thày sẽ biến mất, chỉ còn lại bầy sói đang liếm mép. Nhưng chuyện con sói thịt con chiên là thường, còn chuyện con sói thành hiền như con chiên lại khác.

Trong thực tế sinh vật học sói hiền như chiên là hiếm nhưng trong nếp đời thường những ‘người dữ như sói’ chuyển tâm thành ‘người hiền như chiên’ đâu là chuyện không tưởng. Khi tuyên bố “sai anh em đi như chiên vào giữa sói rừng”, là Thày thổi cho anh em sức mạnh của lòng hiếu hoà để anh em mang Tin Mừng cảm hoá môi trường mình sống. Thày cũng ngầm ý nhắn nhủ anh em, đây là sứ mạng rất cam go, nhưng dù cam go tới mức khó toàn mạng, lời Thày “sai anh em đi như con chiên vào giữa sói rừng” không bao giờ thành lời thách thức, khích động lòng hiếu chiến. Thày vẫn mong “anh em bị xua đuổi ở thành này, hãy trốn sang thành khác” (x. Mt 10, 23). Ở chân trời góc biển nào anh em vẫn là nhân chứng cho hoà bình. Thày đã báo trước cho anh em phận chinh nhân suốt đời chiến đấu cho hoà bình: “Thày sẽ mang gươm giáo tới cho anh em” (x. Mt 10, 34).

Đức Gioan Phaolô II thấy trước bi kịch khủng bố trong thế giới hôm nay nên cũng thiết tha gọi mời mọi người không ngừng chiến đấu cho hoà bình: “Những kẻ giết chóc bằng hành động khủng bố đang gây ra cho nhân loại, cho đời sống, và cho tương lai nỗi tuyệt vọng. Theo cách nhìn của họ, mọi sự đều đáng ghét và phải bị tiêu diệt” (X. Tông Thư Centesimus Annus, 41: AAS 83). Và hoà lời với thánh Phaolô Ngài kêu gọi: “Đừng để sự dữ lấn lướt, nhưng hãy chiến thắng sự dữ bằng điều thiện” (Rm 12:21). Sự dữ không bao giờ bị đánh bại bởi sự dữ; một khi đã chọn vào con đường đó, thay vì khuất phục sự dữ, ta lại bị sự dữ đánh gục.

Đức Bênêđictô còn khẳng định: “Không chỉ có chủ thuyết hư vô mà chủ thuyết cuồng tín tôn giáo, hiện nay được gán nhãn hiệu là thuyết bảo thủ cũng khơi nguồn và khích động kẻ khủng bố toan tính và hành động” (SĐHB năm 2002, số 6). Và Ngài thiết tha kêu gọi: “...mọi người phải cảm thấy mình được uỷ thác để phục vụ sự thiện hảo trọng đại này (hoà bình), và phải nỗ lực ngăn ngừa bất cứ hình thức gian dối nào phá hoại các mối tương quan” (id). Trước tình hình bạo lực như ngày càng gia tăng nhiều người sốt ruột hoài nghi sức mạnh cảm hoá của Tin Mừng Hoà Bình và muốn chọn ‘răn đe vũ lực’ làm giải pháp an định tình hình. Nói khác là lấy oán báo oán nhưng làm thế là làm phản lời Thánh Phaolô: “Đừng lấy oán báo oán” (Rm 12:17).

Bạo quyền nơi học đường

Tại lớp năm một trường tiểu học ở Quận Ba, sau khi nghỉ giữa giờ, một em học sinh nam lên mếu máo méc cô giáo, em để chiếc đồng hồ Seiko trong cặp, chiếc đồng hồ mạ vàng mắc tiền do một bà cô ở Mỹ về mới tặng, bị bạn nào lấy mất. Em nghi một bạn nữ ngồi bàn trên đã ăn cắp vì trước đó có lần bạn này đã lục cặp của em mượn tập. Trầm nét mặt một phút rồi cô giáo tỉnh bơ tới ngay chỗ bạn nữ đó, “Đưa cô xét cặp!” Không chờ cô học trò mở cặp, cô tự động mở tung mọi ngõ ngách, dốc tung mọi thứ trên mặt bàn nhưng không tìm thấy tang vật. Cô nghiêm mặt, “Cho cô xét người!” Cô lục lọi ‘mọi nơi mọi chỗ’ trước mặt các bạn nam nữ trong lớp làm cô học trò đỏ mặt tía tai. Vẫn không thấy đồng hồ đâu, cô bỗng hằn học, “Bạn nào ăn cắp đồng hồ làm mất danh dự cả lớp. Cô không chấp nhận được”. Cô ra lệnh, “Trưởng lớp đóng cửa ra vào lại, cô xét tất cả học sinh có mặt!” Một học sinh giơ tay, “Làm vậy nhục tụi em lắm! Tụi em xin cô”.

Em học sinh đã nói đúng, quyền ở đây đã vượt quyền thành bạo quyền và với bạo quyền cách nào đó cô giáo đã khủng bố gây thương tổn lòng tự trọng của học trò. Ở quê ta, ‘bạo quyền’ thường xẩy ra khi các học sinh được dạy không để thực hành suy nghĩ, sáng tạo nhưng để làm theo lệnh, để viết theo ý người dạy. Cách dạy sáo và lối học vẹt là dấu hiệu lòng tự trọng của thày và trò đang bị thương tổn.

Báo chí còn đăng tải những trường hợp thày trò dàn xếp hợp đồng với nhau theo kiểu ‘chợ đen’. Chẳng hạn trong những lần thày, cô giáo dạy học sinh có cấp trên hay thanh tra tới dự giờ. Thày cô dặn trước, khi thày cô đặt câu hỏi, tất cả các em phải giơ tay dù biết trả lời hay không. Nếu biết câu trả lời, các em giơ tay phải, nếu không biết giơ tay trái để thày cô chọn được đúng người biết trả lời. Các thày cô bao giờ cũng muốn khoe những lớp học như thế, và học trò bao giờ cũng nở mày nở mặt được có mặt trong những lớp mẫu ấy.

Nhưng đàng sau lớp học, bên trong tâm tưởng của thày trò, thày vẫn biết rõ cái vỏ, cái tâm chẳng hoà với nhau và học trò không thể quên bài học mẫu dễ học, dễ áp dụng đó, bài ‘tiên học dối, hậu học gian!’ Có lẽ từ những bài khai tâm đầu đời học sinh như thế, nên dọc suốt năm tháng ngồi trên ghế nhà trường, mỗi lần có thi cử, trường học lại xuất hiện từng tấn ‘phao thi’ do học sinh bỏ lại sau giờ thi (‘phao’ là những bản photo nội dung thi được thu nhỏ cho dễ giấu, nữ sinh có thể giắt cạp quần, nam sinh độn dưới gót giày). Không kể nhiều thày cô còn áp lực học sinh học thêm tại nhà thày cô. Ai từ chối sẽ ‘bị đì sói trán!’ Tất cả chỉ vì nhà giáo muốn tăng lợi nhuận! Người ta áp lực tinh thần nhau đã đành, đôi khi giữa trường lớp, học sinh còn bị giáng những đòn thượng cẳng chân, hạ cẳng tay ‘rất đường phố’. Gần đây một số phụ huynh đã khiếu nại những hình phạt được áp dụng tại một số trường, như thụt dầu 100 cái, chép phạt nguyên cả bài học 600 lần, liếm ghế, nữ sinh phải leo mái nhà xe của nhà truờng quét lá... Thay vì phạt để răn đe, giáo dục học sinh, có vẻ người ta trừng phạt các em như quân thù, quân hằn chỉ để vuốt ve cơn giận của thày cô.

Báo Thanh Niên ngày 15.12.05 có thông tin đau xót, một học sinh bị thày giáo đánh rạn xương mũi. Sáng ngày 12.12 em Phạm Hoàng Minh Trí (15 tuổi) học sinh lớp 10B2, Trường THPT bán công Nguyễn Du bị đánh ngay tại phòng giáo viên. Cô Hồ Nguyễn Bảo Ngọc (kế toán) chứng kiến sự việc kể: “Thày T. dẫn em Trí vào phòng nghỉ của giáo viên, bảo em Trí ngồi xuống rồi đánh vào mặt, vào đầu, đá vào bụng, khiến em Trí chảy máu mũi”. Chẳng ai hay, thày giáo T. muốn dạy Trí và các học sinh trong lớp bài học làm công dân hay làm du đãng!

Theo Đức Bênêđictô, lòng hiếu hoà không cho phép ai “chủ động áp đặt lên người khác những điều mình tự coi là sự thật bằng những phương thế bạo lực, là xúc phạm đến phẩm giá con người, và cuối cùng xúc phạm đến chính Thiên Chúa mà theo hình ảnh Người, con người được tạo dựng” (SĐHB năm 2006, số 9). Thư Mục Vụ cũng nhấn mạnh: “Điểm căn bản trong việc xây dựng con người mới này là làm sao để bản thân mỗi người ý thức và sống đúng phẩm giá của mình (TMV năm 2006, số 5).

C/ Bao Giờ Cho Có Hoà Bình?

Có ngày người Pharisiêu hỏi Chúa Giêsu, “Bao giờ triều đại Thiên Chúa đến?” Người nói: “Triều đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói ở đây hay ở kia! vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17, 20-21). Thế nghĩa là hoà bình đây rồi, chẳng ở đâu xa, ngay trong lòng ta, trong lòng người hiếu hoà. Và mọi người được mời gọi sống hiếu hoà khi thể hiện tình thương và công lý như bức Thư Mục Vụ trình bầy: “Là Kitô hữu, được mời gọi để trở thành ánh sáng cho thế gian, muối cho đời, men trong bột, chúng ta hãy tập trung xây dựng một cộng đoàn trong đó mọi thành phần đều được yêu thương và được đối xử công bằng (TMV năm 2006, số 7).

Tuy nhiên từ nếp đời thường, chúng ta trải nghiệm triền miên ngay trong lòng mình những cuộc đấu tranh gay go tranh tối, tranh sáng giữa Tin Mừng hiếu hoà và lòng vị kỷ hiếu chiến và nhìn ra cục diện xã hội, thế giới ai cũng lo ngại khủng bố đang lan rộng và con người như vô phương kiềm toả. Trong cuộc học hỏi Tin Mừng sáng Chúa Nhật của các giảng viên giáo lý tại một họ đạo ngày Chúa Nhật 3.12.06, một cô giảng viên nêu các biến cố chính trị tại Trung Đông mới đây làm dữ kiện suy nghĩ: tình hình Iran-Israel như đang căng thẳng thêm mỗi ngày. Ngày 12.12.06 tại một hội nghị quốc tế ở Tehran để ‘tái đánh giá’ cuộc tàn sát Israel thời Đức Quốc xã, Tổng thống M.Ahmadinejad tuyên bố, “Sự tồn tại của Israel hiện chỉ còn tính từng ngày!” Ngược lại trước đó, Thủ tướng Israel từng răn đe Iran, “Nếu cần, phải đưa đất nước Iran về với thời đồ đá!” Và cô gái đặt vấn nạn, trong tình thế này, Israel hay Iran khi bị ‘tát má phải có thể giơ cả má trái?’.

Thực tế bao nhiêu giải pháp quốc gia, khu vực hay quốc tế đã được đưa ra, nhưng có vẻ chẳng giải pháp nào khả thi. Không khả thi không phải vì người không thể hoà nhưng vì lòng người không muốn hoà. Tới hôm nay Trung Đông vẫn bom đạn đầy trời, vẫn người chết, nhà cháy, ruộng đồng hoang vu. Giờ hai bên vẫn chưa hoà, chưa yên hoặc có hoà, đã yên nhưng chỉ là bằng mặt, không bằng lòng. Biết đến bao giờ nơi miền đất Quê Hương của Thày mới có hoà bình! Rõ ràng hoà nhau trên bình diện quốc gia, quốc tế đã khó, hoà nhau trong lòng người còn khó hơn. Hy vọng hoà bình đâu như mong manh, không tưởng. Có phải lòng không dám mong hoà bình sẽ thắng, nên lòng hờ hững với công lý và hoà bình trong nhà, trong xóm, nơi quê hương đất nước mình?

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II khích lệ mỗi chúng ta: “Dựa trên xác tín rằng sự dữ không thể chiến thắng, người Kitô hữu nuôi dưỡng một niềm hy vọng không lung lạc, một niềm hy vọng dưỡng nuôi những nỗ lực của họ để xiển dương công lý và hòa bình. Bất chấp những tội lỗi riêng của cá nhân và tội chung của xã hội ghi dấu trên mọi hoạt động của con người, hy vọng Kitô Giáo thường xuyên đem đến một động lực mới cho dấn thân vì công lý và hòa bình, cũng như cho sự vững tin về khả năng có thể xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn” (SĐHB năm 2005, số 11).

Chúng ta xác tín, nghi ngại cuộc chiến thắng của Chúa Hoà bình nên lơ là không hết lòng góp công khó, góp khích lệ để nhà mình, xóm mình, quê mình thuận thảo, hoà hoãn cũng là lơ là với chính niềm tin vào Đức Kitô, “Đấng cách nào đó đã liên kết chính mình với mỗi người” (Gaudium et Spes 22). Thánh Phêrô khích lệ chúng ta, “Anh em hãy luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn anh em về niềm hy vọng của mình. Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và kính trọng” (1Pr 3, 15).

Tiếp đó, Thư Mục Vụ cũng mở ra chân trời hoà bình trong ánh sáng của Chúa Giêsu, Người Mẫu Hoà Bình: Nếu trong đời sống Kitô hữu, Chúa Giêsu thực sự là điểm quy chiếu và là chuẩn mực giúp nhận định giá trị các hành vi, thì sự hiện diện tích cực qua việc sống đạo của Kitô hữu trong xã hội sẽ trở thành lời chứng về những giá trị căn bản của Tin Mừng và trở nên dấu chỉ của niềm hạnh phúc Nước Trời (TMV năm 2006, số 3).

Bạo hành trên đường phố

Bạo hành trên đường phố ở đây không phải cảnh đập phá cửa tiệm, lật xe, đốt xe hay ném đá, hạ dùi cui gây náo loạn đường phố như ở nhiều thành phố nước ngoài. Bạo hành ở đây là bạo hành trong giao thông do người lái xe gây ra. Theo báo Nhân Dân, năm 2006 có tới gần 12.000 vụ tai nạn giao thông (TNGT) làm chết 10.422 người và làm bị thương 9.237 người. So với mười tháng đầu năm 2005, tuy số người bị thương giảm 5,15% nhưng số vụ TNGT tăng 1,33%, đặc biệt số người chết do TNGT tăng với tỷ lệ cao: 10,05% (Báo Nhân Dân ngày 4.12.2006).

Mặt khác tai nạn giao thông đã gây mất mát lớn cho dân Việt. Tại cuộc hội thảo về phòng chống tai nạn thương tích sáng 23/11, Bộ Y tế cho biết, mỗi năm tỷ lệ tử vong do tai nạn thương tích chiếm 11%, đứng thứ ba sau bệnh về tim mạch (18%). Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) ước tính, chỉ riêng các vụ tai nạn giao thông đường bộ đã làm kinh tế Việt Nam thiệt hại 885 triệu USD mỗi năm (Thời Báo Việt), chiếm đến 2% tổng sản lượng quốc dân (theo ước tính của Quĩ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc năm 2002).

Trước tiên tai nạn giao thông nảy sinh từ lối nghĩ ‘đường ta, ta cứ đi’, và để ‘sống chết mặc bay’. Có giai thoại kể, ở một giao lộ đông xe, đông người, cảnh sát giao thông thổi phạt một anh bạn trẻ vượt đèn đỏ, “Anh có thấy đèn đỏ không? / Có thấy nhưng không thấy anh núp đâu!” Rõ là anh bạn chỉ chủ trương né hình phạt của cảnh sát và ‘vô tư‘ trước mọi an nguy của anh chị em mình. Đáng lưu ý, phần lớn các ca tử vong và thương tật rơi vào nhóm có độ tuổi từ 15-49 (theo VOA).

Có vẻ nhiều bạn trẻ không tìm được lý tưởng sống đâm ra ngán ngẩm sống, chẳng thích sống cũng chẳng sợ chết, ra khỏi nhà là vội vã đua tốc độ tìm cảm giác mạnh, nên khắp nơi đều nhan nhản các ‘hung thần xa lộ’. Nhiều bạn khác có thể vì mặc cảm chậm tiến trong học hành, chậm chạp trong suy nghĩ nên bù trừ bằng cách đua tốc độ trên đường phố như một lối khẳng định mình. Có thể nói, một số người với cái tâm tính ‘vô tâm vô tính’ bất kể cuộc an nguy của người xung quanh như thế, nhiều vụ tai nạn giao thông phải được coi là những vụ sát hại. Một số khác với thứ ý thức ‘vô thức’ không phân biệt minh bạch bờ ranh giữa sống và chết, nhiều tai nạn giao thông có thể coi là ngộ sát nhưng hậu quả xã hội sẽ rất bi thương.

Bên cạnh các anh hùng xa lộ, cạnh những người bạn quyết ‘khẳng định mình’ theo nhịp tốc độ, còn có các ‘tay lái lụa’, thứ chuyên viên kiếm ra tiền trên ‘vô lăng’. Các tay lái lụa nhất là các tay đã đóng đủ bảo hiểm, góp đủ bảo kê là ‘vô tư ’ luồn lách, ‘vô hạn’ tốc độ, ‘vô tâm’ bất trắc và họ thành nỗi ám ảnh cho hành khách, mối bất an cho người dân. Một viên chức của Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia, ông Bùi Huỳnh Long, cho biết 80% các tai nạn phát sinh từ việc người lái xe không tuân hành các qui định và luật lệ giao thông. Ông Long nói thêm rằng giới hữu trách cần tăng cường công tác giáo dục về an toàn giao thông cho các em học sinh và gia tăng số lượng cảnh sát giao thông (theo đài VOA).

Nhưng chuyện đáng nói nhất vẫn là lương tâm hiếu hoà và hiếu sinh của mỗi người. Con ‘người mới’ không thể dễ xuôi chiều, ‘ai sao tôi vậy’ nhưng có trách nhiệm về cuộc an nguy của mình và của anh chị em mình. Thư Mục Vụ nhắc chúng ta: “Con người vừa là nạn nhân vừa là tác nhân của hoàn cảnh xã hội. Nếu hoàn cảnh xã hội nhào nặn ra những con người, thì con người mới cũng sẽ dần dần tác động làm nên những hoàn cảnh mới” (TMV năm 2006, số 5).

Trước tiếng rên la của nạn nhân bị cướp đánh và bỏ mặc bên đường, lữ khách hiếu hoà còn chẳng đành bỏ đi nữa là trực tiếp hay gián tiếp gây thương tích, gây tử vong, mất mát thương đau cho ai. Đó là hiếu hoà. Và "Chỉ có việc phục vụ tha nhân mở mắt cho tôi thấy điều Thiên Chúa làm cho tôi và Ngài đã yêu tôi như thế nào" (TĐ. Thiên Chúa là Tình Yêu, số 18).

Ngụ Ngôn 2006

Nghe đồn có một dụ ngôn được ‘ghi nhận’ từ đỉnh lũ trong một mùa lũ ở quê mình. Dụ ngôn 2006: Tại nhà thờ của một họ đạo nằm gần một con đập lớn, đập vừa dẫn nước vào ruộng, vừa ngăn lũ dâng. Một buổi sáng Chúa Nhật, sau thánh lễ, giáo dân vừa từ nhà thờ đổ ra, mọi người sững sờ gặp một người đàn ông bận đồ xanh công nhân, tay mang kềm búa, tay xách mỏ lết đang đứng ngay trên đỉnh cửa chính đập, dáng điệu sao giống Chúa Giêsu quá.

Người ta xôn xao, “Thưa, đây có phải Chúa Giêsu không? / Đúng, Thày đây mà. Sao anh em có vẻ bối rối? / Ngày Chúa Nhật chúng con tưởng Thày suốt ngày ở nhà thờ? / Anh em ơi, mùa lũ này, tình hình lũ biến động từng phút. Có ai đó đã bỏ ngỏ cửa đập đi lễ nên Thày phải thế chân, thế mạng ở đây”. Có giọng ai bất kính, “Thày chỉ khéo vẽ! Chuyện nhà thờ nhà thánh lại không quan trọng muôn vàn lần hơn chuyện lũ lụt sao? Chúng con đi lễ có chết trôi vì lũ cũng cam”. Thày hạ giọng ôn tồn, “Anh em ạ, Tin Mừng của Thày không dành cho các thiên thần nhưng dành cho anh em”.

Có thể với ai đó, Thày chỉ hay vẽ vời, và họ cứ tưởng con đường sống đạo họ đang đi còn chính chuyên hơn cả con đường Thày dẫn chúng ta đi. Con đường hiếu hoà của Tin Mừng chắc chắn không phải lối đi lạnh lùng với anh chị em mình, như các giáo dân đây nhưng là con đường tình Thày đi ấm cúng tình thân. Tin Mừng hiếu hoà đã hiếu hoà từ lời đến ý, từ bài giảng tới cuộc sống, từ tình trong tới mặt ngoài. Thày hết lòng hiếu hoà, Thày suốt đời hiếu hoà, Thày mong chúng ta hiếu hoà?

Lm. Giuse Trịnh Tín Ý

(Hiệp Thông số 38, Bản Tin của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam)

 

 

BẪY NGẦM

Người Eskimo bắc cực có cách bẫy chó sói rất độc đáo.  Họ mài những con dao thật bén, rồi đem nhúng dao đó vào máu súc vật cho đến khi lưỡi dao bọc toàn máu.  Đêm đến, họ đem dao đó cắm ngoài đồng.  Chó sói thính hơi nghe mùi máu, chạy đến liếm lưỡi dao tới tấp.  Đến khi chính lưỡi nó bị dao cắt đứt, máu chảy ra, nó vẫn mải mê cắm đầu liếm mà không biết mình đang liếm máu mình cho tới lúc kiệt sức ngã lăn ra chết.

Con sói vì mê say liếm máu tươi nên bị cạm bẫy mà chết.  Còn con người chúng ta thì sao?  Có khôn ngoan hơn không?  Chúng ta cũng bị nhiều cạm bẫy đang rút dần rút mòn cuộc sống mình mà không biết.  Hôm nay, trong câu chuyện Đức Yêsu bị cám dỗ trong sa mạc, tác giả Luca đã khéo léo lồng vào ba loại cám dỗ mà chúng ta thường mắc phải trong đời thường: ăn sung mặc sướng, vinh hoa phú quý, và danh vọng thành đạt.

Cạm bẫy thứ nhất đánh vào bản năng tự nhiên để sinh tồn, vào nhu cầu thể xác cơm ăn áo mặc.  Đành rằng có thực mới vực được đạo, nhưng con người không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần những giá trị tinh thần để nuôi dưỡng đời sống.  Biết bao nhiêu cảnh đời éo le đã và đang xảy ra quanh ta chỉ vì nhiều người chỉ lao đầu quần quật lo thỏa mãn nhu cầu vật chất mà quên đi ý nghĩa cuộc đời. Ta sống làm gì?  Sống cho ai?

Cạm bẫy thứ hai đánh vào nhu cầu tâm lý có voi đòi tiên.  Nó tạo ra cho chúng ta nhiều nhu cầu giả tạo về vật chất, cũng như tinh thần.  Đồ dùng phải là hàng hiệu.  Quần áo thì phải nhãn mác.  Xe cộ, nhà cửa phải bằng người ta.  Cái tâm lý muốn có tất cả, không muốn thua kém ai, nếu không biết tiết chế sẽ đưa chúng ta vào bẫy sập của lòng ham muốn vô độ.

Cạm bẫy thứ ba lại càng tinh vi hơn. Thành công, được trọng vọng, được người khác tri ân biết đến mình là một nhu cầu tinh thần.  Đo lường cuộc sống bằng thành công luôn là một cái bẫy nguy hiểm kể cả cho những ai tưởng mình đã thoát tục.  Một câu khen tặng có thể làm ta ngây ngất đến trời mây.  Một vài lời phê bình chỉ trích cũng có thể làm ta rơi vào lửa hận thù ghen ghét.  Còn thất bại thì sao?  Nó có làm cho ta thối chí nản lòng, rồi đâm ra ganh tị bất mãn không?  Nó có làm cho ta nghi ngờ vào tình thương của Thiên Chúa, vào sự hiện diện của Người không?

Ăn sung mặc sướng, vinh hoa phú quý, và danh vọng thành đạt là các bẫy ngầm làm chúng ta dễ dàng đánh mất đi giá trị của chính mình là “con cái Thiên Chúa.”  Ngay cả các tu sĩ linh mục cũng chưa chắc thoát ra được những cạm bẫy này.  Nếu ma quỷ không bỏ qua cho Đức Yêsu, dễ gì chúng bỏ qua cho chúng ta.  Bạn và tôi, chúng ta cần xin ơn Chúa để sớm nhận ra những cạm bẫy này trong đời sống hàng ngày, và tìm cách tránh xa chúng.

Sống trong một xã hội hưởng thụ, chúng ta dễ dàng bị hoa mắt bởi muôn vàn lời mời mọc quyến rũ. Tất cả những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, tự chúng không phải là điều xấu.  Chúng trở nên cám dỗ khi chúng ta dựa vào chúng để tìm hạnh phúc.  Chúng là những bẫy ngầm trói buộc chúng ta khi ta dành quá nhiều thời gian của cuộc sống để chạy theo chúng. 

Nếu không cẩn thận chúng ta rất dễ lầm lẫn giữa “những gì tôi muốn” và “những gì tôi cần”. Lòng ham muốn sẽ chi phối, ảnh hưởng trên cuộc sống chúng ta.  Những quyến luyến dính bén, rất dễ đưa chúng ta vào con đường thỏa mãn chính mình và xa rời Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ như con sói liếm máu mình cho đến chết.  Satan chỉ chờ có thế!

Mùa Chay.  Mùa của sự tỉnh thức, là thời gian để hồi tâm cảnh tỉnh trước những cạm bẫy của cuộc đời.  Mùa Chay cũng là lúc Hội thánh mời gọi chúng ta vào sa mạc của cõi lòng mình, để cùng đồng hành với Đức Kitô trên đường thao luyện tâm linh.   Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức để không bị mê hoặc.

Lạy Chúa Giêsu,  Chúa đã trải qua 40 ngày trong sa mạc để chịu thử thách.  Xin cho chúng con được ơn biết nhận ra những bẫy ngầm trong cuộc sống, và có sức mạnh để chống trả.  Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.  Nhưng xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ.  Amen!

Bảo Lộc

 

ĐỪNG ĐỂ MÙA XUÂN HẾT XUÂN

 

Sáng Mồng 2 Tết, tôi đi ban Bí tích Xức Dầu cho một bệnh nhân sắp lìa đời. Khởi đầu mùa xuân mà người trai trẻ đã sắp vào mùa đông sự chết. Một thanh niên mới ngoài ba mươi tuổi. Nhậu nhẹt say sưa, chạy ẩu bị tông xe, chấn thương sọ não, gãy xương cỗ, gãy xương chân. Báo hại vợ con, bán hết tài sản để lo thuốc thang mà chẳng ăn thua gì. Ông bà cụ thân sinh đã ngoài 80 phải lo vay mượn khắp nơi để lo cho con, nhưng “đệ tử lưu linh” này sắp bị lưỡi hái thần chết cắt đứt nay mai. Khi tôi Xức Dầu cho anh xong , anh khóc, nước mắt lăn dài trên hai khoé mắt, dòng nước mắt sám hối muộn màng. Tôi phó thác thân xác và linh hồn của anh trong tay Thiên Chúa nhân lành.

Sáng Mồng 3 Tết, tôi đi làm nghi thức tẩm liệm bên bờ sông cho một thanh niên 19 tuổi bị chết đuối khi đi tắm sông. Năm nào Thác Mai của sông La Ngà cũng có người tế “Hà Bá”. Kể cũng lạ lùng, năm nào cũng có người chết đuối mà người ta đi chơi Tết, tắm sông mỗi năm mỗi đông. Ở thôn quê chẳng có điểm du lịch vui chơi nào. Vì thế mà nhậu nhẹt, tắm sông, bài bạc, đua xe… thu hút phần đông giới trẻ…

Những ngày Tết, ra đường cảm thấy sợ hãi. Xe cộ chạy bát nháo đến phát khiếp. Các bãi biển đông nghẹt những đoàn người ăn nhậu.

Tối Mồng 3 Tết, Đài Truyền Hình HTV 9 cho biết tình hình tai nạn giao thông tăng vọt trong 3 ngày Tết. Các Bệnh viện quá tải ở khoa cấp cứu. Hàng trăm vụ tai nạn làm hơn 250 người chết và hàng trăm người mang thương tích. Nguyên nhân chủ yếu là do uống bia rượu nhiều nên “phóng nhanh vượt  ẩu”.

Ông bà ta ngày xưa có câu: “Khách đến nhà không trà thì rượu”. Ngày xưa uống rượu là một phần nghi lễ trong đời sống văn hóa, xã giao của người Việt, người ta uống đúng nơi, đúng chổ, đúng lúc.

Cụ Nguyễn Khuyến viết: “Rượu ngon không có bạn hiền.

                                           Không mua không phải không tiền không mua

Cụ Nguyễn chỉ nhậu với “bạn hiền”, còn “bạn” dạng khác hay không phải “bạn” thì cụ thà nhịn chớ không nhậu chung.

Con cháu các cụ thời nay thì lại khác. Ăn nhậu trở thành “mốt” trong những mối quan hệ xã hội. Nhậu nhẹt, say sưa, tai nạn, gây biết bao đau khổ cho bản thân gia đình và xã hội.

Theo tác giả Tạ Phong Tần, Sở Thương mại và Du lịch Bạc Liêu thì: Đàn ông miền Tây Nam bộ vốn nổi tiếng thích nhậu, uống rượu đế như uống nước lã.

Thời nay

Bạn bè lâu ngày gặp nhau tay bắt mặt mừng: nhậu; ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp: nhậu; có chuyện vui: nhậu; gặp chuyện buồn: nhậu; hết giờ làm việc đồng nghiệp cùng nhau thư giãn: nhậu; ra ngoài đi công tác rồi “giao lưu”, “kết nghĩa: nhậu; có khách đến nhà: nhậu.

Gặp người quen: nhậu, gặp người lạ mời: cứ nhậu trước rồi khắc quen sau. Nói chung là bất cứ việc gì cũng nhậu trước nói sau, “uống rồi nói mới tin”, ai không muốn nhậu thì bị coi là “chơi không vô”, “không cùng hội cùng thuyền”, thuộc loại “cần phải đề phòng”, v.v…

Tôi có thời gian công tác ở một đơn vị đặc thù mà ở đó tính trung bình cứ 1 nữ thì có đến…18 người đàn ông.

Nhiều lúc, tôi có cảm giác trong mắt các đồng nghiệp nam tôi không phải là phụ nữ mà là một “thằng” như họ, vì vậy, họ mặc sức “xả” ra trước mặt tôi những “câu chuyện đàn ông”, đưa vấn đề ra cùng thảo luận hết sức tự nhiên không chút ngượng ngùng, kể cả chuyện “nhậu rồi sanh tệ” cũng không tha.

Có người còn coi tôi như “quân sư quạt mo” để “vấn kế” chinh phục bạn gái, bị bạn gái “cài số de”, bị vợ chửi…cũng kiếm tôi để “nhỏ to tâm sự” cho bớt ấm ức. Nhờ vậy, tôi phát hiện ra một “chân lý” của các ông là: Đàn ông thích vợ, bạn gái của người khác nhậu với mình (vì có nhậu say thì mới dễ có cơ hội lợi dụng) nhưng kịch liệt phản đối vợ, bạn gái của mình nhậu với người khác (sợ bị “thằng khác” lợi dụng). Vì vậy mà tôi luôn luôn có tinh thần “đề cao cảnh giác” không để nhậu “quyến rũ”.

Nữ cũng nhậu

Cứ tưởng đàn ông mới đầu têu trong chuyện nhậu, ai ngờ, có lần tôi đi công tác chung với các đồng nghiệp nam xuống nông thôn thì có dịp “mục tận sở thị” phụ nữ gầy sòng nhậu.

Đang ngồi trong trụ sở UBND xã nhìn ra thấy có mấy chị trung niên đứng lấp ló ngoài cửa nhìn vào.

Tôi nói: “Có khách kiếm kìa”. Ông Xã trưởng nhìn ra rồi nói: “Khách khứa gì đâu, mấy bả kiếm người nhậu đó, tối ngày rủ tụi tui nhậu hoài riết rồi tụi tui cũng ngán muốn chết, hễ nhậu vô thì không làm việc được nên tụi tui từ chối. Mấy bả bèn nghĩ cách hễ thấy có khách thì tự động đem mồi nhậu đến, tiếng là mời khách nhưng cũng có dịp nhậu cho vui. Kinh phí hoạt động của tụi tui cũng hạn hẹp nên có mấy bả thì đỡ tốn nên tụi tui cũng làm thinh luôn”.

Tôi hỏi tiếp: “Sao mấy bả không nhậu với chồng hay mấy ông trong xóm mà ra đây?”. Ông Xã trưởng cười: “Mấy bà này đàn bà giá không hà, nhậu với tụi tui dầu sao cũng “an toàn” hơn nhậu với mấy thằng cha bợm nhậu trong xóm, nhậu xong hay quay ra quậy, đánh lộn”.

Đúng như lời ông Xã trưởng nói, không hiểu mấy bà chị này “canh me” như thế nào mà vừa làm việc xong đã thấy mâm bát bày ra đầy đủ rồi.

Thật tội cho các chị ở nông thôn, sinh hoạt văn hóa văn nghệ giải trí rất nghèo nàn, thiếu thốn, phải mượn tiệc nhậu để có đôi chút vui vẻ ngoài giờ lao động cực nhọc hay lúc nông nhàn.

Nhậu để thăng tiến ?

Còn ở thành thị, điều đáng buồn là “biết nhậu” đang trở thành “lợi thế” cho những ai muốn thăng tiến trên con đường hoạn lộ, nhậu trở thành một biện pháp xã giao không thể thiếu.

Trong một bữa tiệc mà không uống với anh này một ly, anh kia một ít thì bị coi là người… khô khan tình cảm. Ngược lại, nếu bưng ly mời khắp lượt và “uống tất” với “anh em” thì được coi là “giỏi giao tiếp” (?!). Không hiếm trường hợp có người nhờ tửu lượng cao nên được sếp đưa ra để dành tiếp khách, có sếp thì có người đó, riết rồi trở thành “oai” không kém sếp.

Có lần, tôi được dịp dự đám táng chung với một phụ nữ thuộc hàng lãnh đạo cấp trung bình, được dư luận khen là “giỏi xã giao” nên tôi cũng để ý cử chỉ của “đàn chị” nhằm học hỏi.

Xã giao thế này thì tôi xin lạy cả nón, thà mang tiếng giao tiếp dở còn hơn.

Đám táng là dịp để bà con, thân nhân người đã khuất về làm nhiệm vụ “nghĩa tử là nghĩa tận” với người thân nên tập trung cả người chúng tôi quen lẫn những người lạ rất đông.

Thật bất ngờ, “đàn chị” của tôi nhanh nhảu bắt chuyện làm quen với những người đàn ông lạ trong đám táng, sau vài câu hỏi thăm như: quan hệ thế nào với người chết, hiện nay ở đâu, làm gì, bao nhiêu tuổi, thứ mấy, tên gì… thì “đàn chị” chủ động rót rượu đế ra ly mời “đối phương” cùng cụng ly uống làm quen, coi như “hôm nay là đánh dấu ngày mở đầu tình nghĩa quen biết của hai bên”.

Đàn chị uống “làm quen” liên tục, còn đưa ly rượu bảo tôi “uống làm quen” với người này, người kia.

Từ chối thẳng thừng quá thì không tiện, tôi cũng phải ráng “làm quen” được hai người theo lời chị rồi đánh bài “say”.

Xã giao thế này thì tôi xin “Lạy cả nón”, thà mang tiếng “giao tiếp dở” còn hơn. May mắn là tôi có đặc điểm “ngửi hơi rượu mặt cũng đỏ như cà chua” nên không ai phát hiện cái sự “giả vờ say” của tôi, rủi ai phát hiện thì kể như đời tôi “thê thảm” vậy.

Người phương Tây có một phong tục rất hay khi nhập tiệc là: Mỗi người một bộ đồ ăn riêng, một chai rượu riêng, một cái ly riêng, ai thích uống bao nhiêu cứ tự giác rót, không có chuyện ép uống rượu đến mức chịu không nổi ói mữa đầy bàn tiệc như ở ta. Và họ cũng không có cái kiểu ngồi ăn nhậu tì tì hết giờ này sang giờ khác, ngồi lâu đến chai đít như chúng ta.

Tôi ước gì người Việt chúng ta học nét văn hóa “uống rượu tự giác” của mấy ông Tây để tôi đỡ mang tiếng là “khó chơi”, “khô cằn sỏi đá” thì tôi đội ơn vạn bội.

NHỮNG KIỂU ĂN UỐNG QUÁI LẠ.

Trong một cuốn sách xuất bản tại Mỹ dưới nhan đề Tour du lịch về ẩm thực, Anthony Bourdain - ký giả tờ New York Times đã mô tả thật ấn tượng về cách thưởng thức món huyết rắn tươi tại một nhà hàng ở trung tâm Sài Gòn: “… Người phục vụ cười toe toét tiến về phía tôi, trên tay đang giữ một chiếc túi nặng. Anh ta mở miệng túi lôi ra một con rắn hổ dài khoảng 1,2 mét trông rất hung hãn. Nó ngóc cao đầu, mang bạnh to ra trong tư thế sẵn sàng tấn công khiến tất cả thực khách đều rú lên kinh hãi… Người huấn luyện rắn được sự giúp đỡ của một người trợ lý với một cái đĩa kim loại, một cái tách trắng nhỏ, một bình rượu đế và một bộ kéo tỉa vườn. Hai người đàn ông chụp con rắn hổ mang, và trong khi người trợ lý dùng tay vuốt dọc theo thân rắn thì người huấn luyện với một tay còn lại kê chiếc lưỡi kéo sắc nhọn chọc vào bên trong ngực nó một cách nhanh nhẹn và thuần thục móc quả tim ra ngoài. Một dòng máu đỏ thẫm chảy vào chiếc đĩa kim loại, sau đó được rót vào chiếc ly hòa với rượu đế.

Trái tim rắn được đặt trong chiếc tách trắng nhỏ và khi được di chuyển đến trước mặt tôi nó vẫn còn đập! Tôi ngửa cổ dốc cạn ly rượu pha tiết rắn như cố nuốt một cảm giác thật khó tả…”.

Khi thú ẩm thực đã được nâng lên thành một nghệ thuật với đủ cách sáng tạo không ngừng, thì việc bày ra các kiểu “ăn sống nuốt tươi” càng quái chiêu bao nhiêu lại càng được dân nhậu chuyên nghiệp ưa chuộng bấy nhiêu. Sách chép rằng: ngày xưa, bà Từ Hy thái hậu cho nuôi chuột bạch bằng nhân sâm đến đời thứ ba rồi dùng những con chuột con còn đỏ hỏn thả vào cái chén ngọc đựng đầy mật ong đem chiêu đãi thượng khách. Đến lúc chuột uống no một bụng mật, thực khách đưa lên miệng cắn sẽ nghe phát ra một tiếng “bụp”, đó là một cách khoái khẩu của bậc vương giả! Chỉ nghe kể thôi nhưng người “yếu bụng dạ” đã cảm thấy buồn nôn, song vẫn chưa bằng những kiểu ăn uống còn khủng khiếp hơn vào thời đại văn minh của thế kỷ 21 này: Có một nhóm du khách người nước ngoài đi vào ngôi làng người dân tộc thuộc tỉnh Quảng Nam tìm mua một con bê độ vài tháng tuổi với giá năm trăm ngàn đồng. Bữa tiệc… sống bắt đầu khi một người trong nhóm lôi từ trong chiếc cặp ra một ống xi-lanh khổng lồ. Bằng một động tác cực kỳ nhanh nhẹn và điệu nghệ, ông ta chọc mũi kim vào đúng động mạch cổ con vật rút đầy một ống máu tươi rồi chia đều mỗi cốc cho cả nhóm. Tiêu được rắc lên và mọi người cùng ngửa cổ ực cả cốc máu tươi vẫn còn nóng hôi hổi với một vẻ khoái trá sau những cái chép miệng! Sau đó, người đàn ông này dùng con dao bén ngót rạch một đường dài ở hai bên đùi sau của con vật và khéo léo tách ra hai mảng thịt đỏ ối, cắt chia ra từng phần và mỗi người cầm một tảng thịt đang rỏ máu chấm vào đĩa muối tiêu chanh nhai ngấu nghiến!

Muốn thưởng thức các món thịt hoặc hải sản tươi sống phải liệt kê ra đến hàng trang giấy, nhưng vẫn chưa làm thỏa mãn dân nhậu chuyên nghiệp và họ lại đổ xô đi săn lùng các loại huyết tươi động vật pha rượu. Từ huyết tươi, người ta còn chế ra các món đưa cay rất dễ sợ là tiết canh – từ tiết canh vịt, tiết canh dê, tiết canh heo đến cả tiết canh chó! Dân nhậu thường kháo nhau một cách khá ngây thơ về “công dụng” của các chế phẩm huyết tươi, rằng sẽ giúp quý ông tìm lại phong độ hùng dũng của tuổi xuân, nào là “ông uống bà khen”… Nhưng khoa học đã chứng minh điều này bằng con số zêrô, thậm chí còn rất có hại.

Có một kiểu ăn “không đụng hàng” chỉ dành cho các bậc vua quan Trung Hoa cổ, sau đó được du nhập sang Việt Nam. Bẵng đi một thời gian khá dài nhưng hiện nay nghe nói đã xuất hiện ở một vài nơi của xứ ta, tất nhiên chỉ những người thuộc “hệ máu lạnh” mới dám thưởng thức.

Đó là món óc khỉ sống mà mới nghe kể qua sởn gai ốc bởi kiểu “hành quyết” chỉ có ở thời trung cổ: một con khỉ sống nhăn được đặt ngồi cho một phần đầu nhô lên dưới tấm gỗ khoét lỗ tròn vừa vặn. Lông ở đỉnh đầu kẻ “tử tội” được cạo sạch. Sau khi dùng rượu cồn sát trùng, tay “đao phủ” dùng con dao to bản phạt ngang hộp sọ con khỉ để lộ ra một mảng óc trắng phếu. Kế đến các thực khách dùng muỗng múc óc từ trong sọ khỉ cho vào chén và bắt đầu một bữa tiệc kinh dị!

Tác giả Cửu Long cũng đã viết một bài phóng sự về Chợ Côn Trùng mà các “đệ tử lưu linh” từ khắp nơi đổ về tìm mua loại “rượu ông uống bà khen”.  Trong Đại Nam Nhất Thống Chí, phần nói về việc mở mang bờ cõi phía Nam cũng có nói đến vùng núi Thất Sơn huyền bí. Thất Sơn hay Bảy Núi (An giang) không chỉ là “bảy ngọn núi”: Phụng Hoàng Sơn, Thiên Cấm Sơn, Ngoạ Long Sơn, Anh Vũ Sơn,Thuỷ Đài Sơn, Liên Hoa Sơn, Ngũ Hồ Sơn mà còn có Núi Trà Sư, Núi Nhạn, Núi Sam… tạo thành một quần thể núi non trùng điệp kéo dài từ Thị Xã Châu Đốc về Huyện Tịnh Biên đến Huyện Tri Tôn. Chơ biên giới “Tịnh Biên” nay đã “chết tên” với những tay bợm nhậu: “chợ ông uống bà khen”. Xung quanh chợ có nhiều người chuyên bán: tắc kè, mối chúa, bữa củi, bò cạp, rắn rít…Những thứ mà theo truyền miệng, chỉ cần thêm một thang thuốc bắc và một lít “rượu gốc” sẽ trở thành loại thuốc..’cường dương”. Bà Ba (Nguyễn thị kim Ba), mấy năm làm “tiểu thương” tại cái chợ đặc biệt này, bà đã “rành” “công hiệu” từng con bò cạp, bữa củi, tắc kè, mối chúa…hơn cả mấy ông Đông Y. Bà đọc làu làu “công hiệu” từng con một. “Nói cho chú em biết, dân địa phương ở đây đau ốm chẳng ai tốn một xu uống thuốc tây. Họ ăn mấy thứ này không à”. Bà Ba vừa nói vừa lấy tay chỉ mấy cái thau đựng côn trùng. Một anh lính biên phòng trờ tới mua, mua một lúc 100 con bữa củi rồi rồ ga lao xe đi mất. Chú em biết không, các sếp ở tỉnh giờ mua mấy cái thứ này ngâm rượu làm quà tặng nhau. Họ sai lính đến đây mua hoài à.

Từ ngày có cái chợ này, Thất Sơn huyền bí gần như bị dân thất nghiệp lật tung lên từng mét núi để kiếm bò cạp, bữa củi, rắn, rít, nhền nhện núi…bán cho “lái”. Lúc đầu mấy thứ này hoàn toàn do dân địa phương lên núi bắt, giờ thì hết sạch rồi, may ra chỉ còn bữa củi mà thôi. Anh Cao Hoàng Lâm, một “tiểu thương” nói. Anh Lâm cho biết, gần đây nguồn côn trùng có được là do “dân Miên” (người Kh-mer) bắt ở Campuchia rồi đem sang Việt nam bán lại. Một con bò cạp (cỡ ngón tay cái) bán 2000đ/con, bữa củi 2000đ/con, nhưng cũng có con rắn hỗ dài hơn cả mét giá hàng trăm ngàn đồng, thậm chí có hũ rượu Lâm bán hơn cả triệu đồng…mỗi tuần Lâm bỏ mối cho 4-5  quán “đặc sản miền núi” Huyện Tri Tôn khoảng 1000 con bò cạp.

Từ miếu Bà Chúa Xứ, ngước nhìn lên lưng chừng Núi Sam, lô xô am, cốc của những đạo sĩ. Tôi thầm nghĩ, bây giờ các đạo sĩ có muốn ”luyện thuốc” chắc cũng phải lắc đầu ngao ngán vì biềt tìm đâu ra côn trùng. Thất sơn huyền bí đã bị xâm phạm thô bạo bởi từ khi có cái chợ “đặc sản miền núi” kia. Tất  cả cũng chỉ vì “miệng lưỡi” con người mà thôi!. (x.Báo Công Giáo Dân Tộc số 1551, bài Đi chợ côn trùng ).

Theo tác giả Phan Trường Giang kể lại trong báo công an thành phố. Khoa cấp cứu Bệnh viện 115 đã từng tiếp nhận và điều trị khá nhiều trường hợp bệnh nhân bị nghi ngờ nhiễm giun lươn. Trong số này có một bệnh nhân nam từ tuyến dưới chuyển lên TP. Hồ Chí Minh. Người này kể, sau một lần bị ngã bỗng phát hiện có một khối u nổi lên phía sau đầu. Điều kỳ lạ là cục u này lại biết di chuyển. Hôm nay đang ở trên đầu, ngày mai nó đã đi xuống má. Đến hôm sau nữa nó lại đi xuống cổ. Từ cổ nó lại “chạy” lung tung khiến ông này phát hoảng. Qua nhiều lần xét nghiệm ở nhiều nơi, các bác sĩ cũng lắc đầu không biết ông mắc chứng bệnh gì. Sau đó, một bác sĩ có nhiều kinh nghiệm nghi ngờ ông có thể bị nhiễm ký sinh trùng. Kết quả thử huyết thanh cho biết ông đã bị nhiễm giun lươn giai đoạn ấu trùng di chuyển. Ông này cho biết trước đây mình thường xuyên cùng bạn bè uống rượu huyết rắn.

Khoa tiêu hóa BV 115 cũng tiếp nhận một ca tương tự sau khi đã mất hai năm điều trị tại một BV khác với chẩn đoán là viêm đa khớp dạng thấp và viêm dạ dày, nhưng càng điều trị bệnh lại càng trở nên nặng hơn. Tại đây, các bác sĩ đã cho bấm nội soi để sinh thiết, và trong khi chờ kết quả, bệnh nhân xin được về nhà. Kết quả trên hình ảnh sinh thiết dạ dày cho thấy ký sinh trùng hiện diện trên cả bề mặt niêm mạc, trong lòng ống tuyến, tấm dưới niêm. Ngay lập tức, BV gửi thư yêu cầu bệnh nhân trở lại BV ngay để điều trị, nhưng bệnh nhân đã chết trước đó một ngày khi lá thư kịp đến!

Một trường hợp khác, có anh thanh niên (ngụ TP. Nha Trang, Khánh Hòa) một hôm phát hiện trên mu bàn tay mình bỗng nổi lên cái mụn nhỏ. Sờ vào không thấy đau, nhưng cái mụn này có hôm biến đi đâu mất, hôm khác lại thấy xuất hiện. Trong một buổi ngồi nhậu với bạn bè, táy máy anh cạy thử cái mụn nhỏ ấy ra thì một con ấu trùng giun từ đấy rơi ra và ngọ ngoạy trên bàn khiến cả bàn nhậu một phen xanh mặt! Anh này thừa nhận mình là một “đồ đệ” trung thành của món tôm sống chấm mù tạt và gỏi cá sống…

Theo tiến sĩ, bác sĩ Trần Thị Hồng - chủ nhiệm bộ môn ký sinh Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế TPHCM thì trong các món đặc sản từ cá, rắn, lươn, ếch… đều tiềm chứa ấu trùng Gnathostoma. Thông thường ấu trùng xâm nhập vào cơ thể con người khi ăn thức ăn chưa nấu chín hoặc các món sống sít, nhất là huyết rắn hổ pha rượu. Tại các nước Đông Nam Á, nhất là Nhật, Thái Lan, Việt Nam, Philippines… tỉ lệ gặp hội chứng ấu trùng di chuyển rất cao, đơn giản là vì những nơi này là “vua” khoái ăn đồ sống! Ấu trùng Gnathostoma có thể đưa bệnh nhân đến tử vong do chúng di chuyển qua hệ thần kinh trung ương làm viêm não - tủy, xuất huyết dưới màng nhện. Bệnh kèm theo là liệt nhiều chi, thông thường liệt hai chân, có khi liệt cả bốn chi. Đáng sợ hơn là loại ấu trùng này như có phép tàng hình - cứ xuất hiện rồi biến mất, rồi bỗng nhiên lại xuất đầu lộ diện ở một nơi khác sau một thời gian nằm im hoặc bí mật chu du khắp bên trong nội tạng cơ thể con người… nên việc định bệnh là không đơn giản.

Theo thông tin mới nhất, trong sáu tháng đầu năm 2006, Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn (Bình Định) đã tiếp nhận hơn 1.200 bệnh nhân nhiễm sán lá gan. Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TPHCM mỗi ngày tiếp nhận hàng chục ca nhiễm sán lá gan. Đây là loại sán thường ký sinh ở gan và đường mật những động vật ăn cỏ. Hiện nay dịch bệnh sán lá gan đã xuất hiện ở hơn 45 tỉnh thành trong cả nước.

Đây quả là một tín hiệu không vui cho những người khoái ăn thịt tươi sống với cái đà “liên tục phát triển” như hiện nay. (x. Báo công an thành phố, ngày 4.2.2007).

Tết là ngày lễ của mùa xuân. Ngày Tết không một người nào có vẻ nghèo cả! Mọi người đều có một chút gì để mà “ăn Tết”. Người ta chấp nhận mang công mắc nợ để rồi sau đó sẽ vất vả làm lụng để trả nợ, nhưng vào ngày Tết người ta cần phải tận hưởng. Mọi người đều có quyền “ăn Tết”, mọi người đều cảm thấy có bổn phận vui hưởng Tết.

Biết bao là những nét đẹp thanh cao, tao nhã của truyền thống ngày Tết cổ truyền Dân tộc. Ước mong mọi người biết “chay tịnh”, biết “hãm mình”, luôn tự chủ bản thân để những ngày vui xuân thật sự hạnh phúc, an lành cho mình và cho gia đình, cho xã hội.

Mồng 4 Tết

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thế nào là sống mùa chay?

Hằng năm, hầu như mùa chay thánh bắt đầu trước hoặc sau mấy ngày Tết Nguyên Đán của chúng ta. Người tín hữu Công giáo không khỏi thắc mắc: Nếu ngày Tết Nguyên Đán vào mùa chay, thì có được vui mừng đón Tết được không?

Tôi nghĩ vui mừng ngày đầu Xuân Năm mới là một chuyện, còn mùa Chay thánh là một chuyện. Những sự việc này có thể xảy ra trùng hợp vào thời gian ngày tháng. Nhưng không vì thế, cái nọ làm giảm bớt gía trị cái kia.

Năm nay mùa Chay bắt đầu vào ngày thứ Tư 21.02.2006, và kéo dài tới ngày Chúa Nhật mừng Chúa phục sinh 08.04.2007. Trong thời gian này ta cần phải sống thế nào cho đúng ý nghĩa mùa chay .

Xưa nay nói nghĩ đến mùa Chay là nghĩ ngay đến việc ăn chay: kiêng thịt và ăn ít. Nếu chỉ dừng lại nơi hai việc này, thì chưa sống đúng ý nghĩa mùa chay thánh.

Bây giờ chỉ còn ăn chay kiêng thịt hai ngày trong năm thôi, theo luật Giáo hội: ngày thứ Tư lễ Tro và ngày thứ sáu Tuần Thánh.

Nhưng nếu ai có lòng tự ý hy sinh ăn chay kiêng thịt thêm nữa, là điều tốt lành đạo đức, cùng là điều đáng khuyến khích.

Trong Kinh Thánh Chúa Giêsu nhắn nhủ việc chay tịnh:

- Khi con giúp đỡ người nghèo khó, con đừng đánh trống thổi kèn việc con làm...“( Mt6,2)

- Khi con cầu nguyện, con đừng bắt chước kẻ gỉa hình...(Mt 6,5)

- Khi con giữ chay tịnh, đừng làm bộ mặt ủ rũ rầu rĩ như bọn gỉa hình...(Mt6,16)

Như thế, Chúa Giêsu khuyến khích giữ chay tịnh trong trái tim hồn, chứ đừng giữ chay tịnh theo bề mặt bên ngoài.

Niềm vui với Thiên Chúa, niềm vui với tha nhân và cả với chính bản thân sức khỏe của mình không là bước cản trở sống ý nghĩa mùa chay. Trái lại, niềm vui đó giúp sống mùa chay theo đúng ý Chúa rất nhiều.

Có nhiều cách thức áp dụng sống mùa chay thánh, để ba việc căn bản: cầu nguyện, bố thí giúp người nghèo và ăn chay, được có ý nghĩa đầy đủ.

1. Ăn chay bằng đôi con mắt:

Con mắt là cửa cho những hình ảnh từ bên ngoài đi vào trong tâm trí con người. Ánh sáng đôi con mắt phản chiếu hình ảnh của mỗi con người. Nó tựa như mặt trời của con người. Con mắt không chỉ thu nhận hình ảnh từ bên ngoài vào trong thâm tâm mình. Nhưng nó còn chiếu tỏa ra bên ngoài những gì sâu kín nội tâm của con người nữa. Nó như tấm gương phản chiếu của linh hồn tâm trí và của thân xác con người. Con mắt là cửa số của linh hồn!

Nên tiết độ chừng mực bằng con mắt trong việc nhìn, trong việc quan sát, giúp ích rất nhiều cho tâm hồn được bình an. Chỉ nhìn xem những gì lành mạnh tốt đẹp, những gì mang gây đến niềm vui hạnh phúc cho mình cho người khác

2. Ăn chay bằng đôi tai

Đôi tai là cổng cho âm thanh to nhỏ từ bên ngoài đi vào trong tâm trí con người. Đôi tai là hình ảnh của sự cởi mở và sẵn sàng thâu nhận, cho lắng nghe.

Có những âm thanh làm đảo lộn tâm trí đời sống, tạo ra bất an cho con người. Vì thế tiết độ chừng mực bằng đôi tai, không phải là chối từ lắng nghe. Nhưng chỉ sẵn sàng nghe đón nhận những âm thanh tiếng nói mang lại niềm vui cho tâm hồn cùng gợi suy nghĩ sự hữu ích tốt lành thánh thiện cho đời sống.

3. Ăn chay bằng đôi tay

Đôi tay không chỉ là phần thân thể tứ chi của con người, nhưng nó là dụng cụ có nhiều công dụng cho cuộc sống con người. Đôi tay là hình ảnh sức mạnh con người, đồng thời nó cũng diễn tả ra bên ngoài sức sống suy nghĩ từ bên trong tâm trí tâm trí.

Khi tay cử động làm việc, diễn tả hay sáng tạo, là muốn gửi đi tín hiệu đã được suy nghĩ nghiên cứu của tâm trí. Cử động của đôi tay là ngôn ngữ không thành lời, những gì người đó muốn nói.

Đôi tay làm việc thiện tốt lành, làm việc xây dựng, bác ái, chúc lành, cầu nguyện. Nhưng đôi tay cũng làm gây ra những việc không lành mạnh, không xây dựng, từ chối phá đổ, chửi rủa.

Tiết độ chừng mực bằng đôi tay là không dùng nó cho những việc tiêu cực, những việc không lành mạnh, những việc mang đến hậu qủa phá đổ không xây dựng.

4. Ăn chay bằng đôi chân

Đôi chân dung để đứng, để đi. Với đôi chân đứng vững trên mặt đất nền nhà là dấu chỉ sự nối kết giữa con người và đất. Từ đất , như trong Kinh Thánh diễn ta, con người được tạo thành và sau cùng cũng trở về với đất.

Đôi chân của con người diễn tả con đường sự sống của họ, con đường hành trình một đời người.

Chừng mực tiết độ bằng đôi chân trong đời sống là không chỉ biết đi mãi, đi không còn biết mệt mọi. Nhưng còn phải biết dừng chân nghỉ ngơi, dừng chân để suy nghĩ lại bước đường đã đi qua.

Chừng mụuc tiết độ bằng đôi chân trong đời sống là biết đi đến với người khác, không phải chỉ đi cho riêng mình.

Chừng mực tiết độ bằng đôi chân là không phải đi đến địa điểm có lợi ích cho phần nuôi sống thân xác. Nhưng còn cần phải đi đến địa chỉ nơi cầu nguyện, nơi học hành, nơi giải trí lành mạnh để nuôi sống phần tinh thần nữa.

Lm. Nguyễn Ngọc Long

SỐNG CHỨNG NHÂN

TOMASELLA MANFERRARI: BÀ MẸ HIỀN CHẾT CHO CON ĐƯỢC SỐNG

Tommasella Manferrari là một nữ nha sĩ 39 tuổi, con gái duy nhất của một gia đình khá giả tại miền Reggio Emilia, bắc Italia. Nàng tốt nghiệp nha khoa hồi năm 1985 với điểm tối ưu và sau hai năm tu nghiệp, về làm việc tại trung tâm nhi đồng thành phố cùng và có phòng mạch riêng. Tommasella rất yêu nghề và yêu đời, và không chút bận tâm vì chưa gặp được bạn đời. Năm 1995, sự tình cờ đưa nàng gặp gỡ với Gianni Bianchini, một kiến trúc sư đảm nhận việc trùng tu căn hộ của Tommasella. Hai người tiến tới hôn nhân sau đó ít lâu và hạnh phúc ngự trị tràn đầy trong gia đình mới này. Hai vợ chồng cư ngụ trong căn hộ dưới nhà cha mẹ Tommasella.

Đầu năm 1998, Tommasella vui mừng khôn tả khi được biết là có thai đứa con đầu lòng. Vì là con một nên nàng rất mong muốn có đàn con đông đảo. Mặt khác, Tommasella có cha mẹ ở ngay lầu trên nên mọi vấn đề trông gửi con cái về sau này không hề làm đôi vợ chồng trẻ này bận tâm.

Nhưng những tháng đầu tiên mang thai đã làm cho Tommasella mệt mỏi lạ thường. Linh tính của một bác sĩ báo trước cho nàng biết điều chẳng lành: quả thật, các cuộc thử nghiệm sau đó cho biết là Tommasella mắc phải chứng bệnh ung thư dưới hình thức hiểm nghèo và độc hại nhất, một hình thức thường xuất hiện nơi những người trên 50 tuổi tại các nước Á châu xa xôi. Để mong chữa trị và ngăn chặn căn bệnh này, Tommasella phải chạy chữa bằng những phương thức trị liệu mạnh mẽ và có thể gây nguy hại cho bào thai đang mang trong lòng. Trước và sau khi biết rõ kết quả các cuộc thử nghiệm, Tommasella đã cương quyết khẳng định trước mặt chồng và cha mẹ cùng các bác sĩ là muốn bảo vệ sự sống trong cung lòng mình và sẵn sàng từ chối mọi cách thức điều trị có thể cứu sống mạng mình nhưng đe dọa bào thai mỏng manh trứng nước của giọt máu trong bụng. Bằng mọi cách, Tommasella yêu cầu các bác sĩ bảo vệ sự sống đang vươn lên cho dù điều này có nghĩa là dẫn mình đến cái chết cầm chắc trong tay. Bà mẹ trẻ cương quyết nói với các bác sĩ: ”Tôi mang thai đã đến tuần thứ 32 rồi và tôi muốn được làm mẹ.”

Tháng 10 năm 1998, Tommasella sinh hạ một bé gái. Lần đầu tiên xiết chặt đứa con bé bỏng trên tay, Tommasella vừa nghẹn ngào vừa hãnh diện hãnh diện vì con đẹp như thiên thần, nghẹn ngào vì không biết có được nhìn con khôn lớn và dìu con những bước chập chững vào đời hay không.

Đứa con vừa chào đời như đã mang lại nguồn sinh lực mới cho Tommasella. Theo quyết định của các bác sĩ điều trị, Tommasella khởi đầu những phương thức trị liệu hóa học rất mạnh và một thời gian sau, cảm thấy khỏe khoắn hơn nhiều. Nhưng thật đáng buồn, Tommasella chỉ khỏe hơn được vài tháng rồi cơn bệnh lại lan nhanh. Khi nhìn con thơ ngây nở nụ cười đầu tiên, bà mẹ trẻ đau xót than thở: ”Mẹ mong biết mấy được đưa con đi dạo mát khi chiều xuống, đựơc thì thầm kể chuyện cổ tích đưa con vào giấc ngủ hồn nhiên mỗi tối, như tất cả các bà mẹ khác. Nhưng sẽ chẳng bao giờ mẹ được hưởng niềm vui đó con ơi.”

Tommasella tiếp tục chiến đấu với cơn bệnh ung thư nan y vì tình yêu đứa con bé bỏng với đôi mằt to tròn đen láy. Nhưng rồi cơn bệnh tàn nhẫn tiếp tục lấn át, sức khỏe của bà mẹ trẻ ngày càng kiệt quệ. Nhưng cơn mệt mỏi làm tay chân bà rời rã, không bồng bế nổi đứa con yêu. Đêm thứ hai 17.5.1999 Tommasella nhắm mắt đầu hàng cơn bệnh, bỏ lại đứa con bé bỏng mới 8 tháng. Người mẹ can đảm này đã cương quyết chọn sự sống cho đứa con yêu, mặc dù phải hy sinh chính mạng sống của mình, cũng như thánh nữ Gianna Beretta Molla (1922-1962) một nữ bác sĩ nhi đồng, được ĐTC Gioan Phaolo II tôn phong chân phước hồi tháng 4 năm 1994, và phong hiển thánh ngày 16-5-2004 với lễ kính ngày 28-4 hằng năm. (La Nazione 22-5-1999)

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

Giáo Dục Giới Tính

 

HẬU QUẢ, NỖI ĐAU…

CHỈ VÌ NGÂY THƠ & THIẾU HIỂU BIẾT

 

 

Quý vị phụ huynh trong khi giúp con em về giới tính, xin cứ mạnh dạn giải thích cho chúng là – Các con em thật sự quá liều lĩnh – Khi có quan hệ tình dục là chính mình tự cột chặt và lệ thuộc tình cảm vào một người mà chưa biết chắc người đó có “THẬT SỰ” yêu mình hay không. Nếu gặp người không yêu mình, hay không dám dấn thân lâu dài và sâu xa với mình thì thật không phải đáng tiếc mà thôi, mà còn tự phá hủy đời mình nữa! Đó là lý do tại sao phải đợi cho đến khi thành hôn, và đến khi biết chắc người ấy thật sự yêu mình, điều này được thể hiện khi họ thật sự dám mang trách nhiệm, là dấn thân vào hôn nhân. Lợi ích của việc quan hệ tình dục chỉ được bảo đảm chắc chắn cho cả hai bên, nhất là phía nữ giới khi chúng song hành với hôn nhân. Vì lúc đó quan hệ tình dục sẽ có ý nghĩa và mang lại vui sướng cùng nhiều lợi ích trong tương quan vợ chồng – Yêu thương, gắn bó, tin tưởng, tôn trọng…

 

Biết bao cuộc đời tan nát hay mất mát, hoặc chìm ngập trong nỗi đau khổ, nuối tiếc… vì sự thiếu khôn ngoan và hiểu biết. Qua lời đối thoại giữa tư vấn viên và cô gái mới 20 tuổi này, chúng ta sẽ nhận ra rõ thực tế sẽ như thế nào. Đây là lời khẳng định của một bạn nam khi biết bạn gái mình có thai. “Em có tìm kiếm cha của đứa bé sắp sinh này lần nào nữa không, sau khi anh ta bỏ rơi em?”

 

“Có mấy lần, nhưng lần nào ảnh cũng tránh mặt. Lần cuối cùng ảnh còn nói thẳng thừng với em là ảnh không biết đó có phải là con ảnh không, vì ảnh cho rằng, ảnh quan hệ với em dễ dàng như thế thì người khác cũng có thể làm vậy được .”

Lời tâm sự trên phản ảnh rất rõ cách suy nghĩ của một số bạn nam, các bạn nữ cảm thấy như thế nào? Đó là sự thật mà tôi đã nghe không ít! Xin phụ huynh tâm sự và kể cho con em những tình huống như thế, hy vọng mưa lâu ngày cũng thấm đất, ngay cả những mảnh đất “cố chấp và bất cẩn” của tuổi thanh thiếu niên.

 

Nhiều bạn trẻ quá lý tưởng hóa tình yêu của mình, một mặt lại đơn giản hóa chuyện yêu đương, xem việc “cho nhau” không tính toán là một bằng chứng của tình yêu, của sự chân thành. Với trái tim đầy cảm xúc và một trí óc còn non dại, hành trang vào đời của các bạn trẻ thật bất cân đối với các phức tạp của cuộc sống. Những con chim non hót những tiếng kêu ai oán mà người lớn chúng ta thật sự xót xa, nhưng thường khi biết được thì đã “quá muộn!!!”

 

Đây là trích đoạn của một cuộc tư vấn cho một bạn chưa đến tuổi đôi mươi.

 

“Người yêu của em một tháng nay anh đi đâu biệt tăm không có liên lạc gì với em cả. Giờ thì em chẳng biết làm sao cả, hay là anh ấy đã bỏ em rồi???”

“Chuyện của em và anh ấy yêu nhau được một năm rồi, tình yêu của chúng em đẹp lắm với lối lo lắng chăm sóc của anh ấy, anh tỏ ra rất quan tâm đến em, lo lắng, chăm sóc, lo cho em đủ điều, em muốn gì, anh ấy cũng chìu em, mà hơn một năm nay em cũng rất yêu anh ấy. Cô biết đó, trong tình yêu thì đâu có tiếc cái gì đâu phải không? Kể cả những gì tốt đẹp nhất ”.

“Tại sao em phải trao cái gì tốt đẹp nhất cho anh ấy?”

 

“Thì cô biết… hai người yêu nhau mà riêng bản thân em nếu mà mình đã yêu người ta rồi, còn dè dặt gì nữa . Còn anh ấy cũng vậy nữa, nhiều khi anh ấy không đòi hỏi, nhưng mà vấn đề tế nhị mối quan hệ giữa nam nữ với nhau, cô cũng biết đó, nói chung lửa gần rơm nó vậy đó… Em cũng không hiểu sao nữa. Giờ thì em cảm thấy buồn lắm!”

“Em có nghĩ rằng mình đã liều lĩnh quá không?”

 

“Cô nghĩ sao? Bản thân em là người con gái, khi yêu là bất chấp tất cả gia đình, bạn bè để được yêu và hạnh phúc trong tình yêu, em nghĩ như vậy, mình đâu có cái gì mà tính toán trong tình yêu , nếu mà tính toán trong tình yêu chẳng khác nào vụ lợi trong tình yêu thôi”

“Thật sự em và anh ấy trước khi đến với nhau thì cũng đã bàn luận về vấn đề sống chung rồi, chúng em chỉ định sống thử thôi, nếu hợp nhau thì chúng em sẽ làm đám cưới, còn không thì thôi. Nhưng lúc về chung sống với anh ấy, thì em đã nhận ra rằng em đã yêu anh ấy thật sự, em không thể nào sống thiếu anh ấy được (bị dính – nhu cầu cần người kia), còn em thì không biết suy nghĩ anh ấy như thế nào nữa – trong quá trình sống anh ấy không bộc lộ gì… “

“Theo em thì đơn giản thôi, tuổi trẻ mà! Mình cứ sống sao cho mình cảm thấy vui vẻ và thoải mái là được rồi, chắc khi đó em còn bồng bột… Chớ em không nghĩ hậu quả nó buồn như thế này, nếu em biết nó đau khổ như vậy thà em sống cô đơn còn hơn…”

 

Tiếc thương và nhiều đau xót cho nhiều số phận con em của chúng ta: vì quá ngây ngô, vì cha mẹ thiếu quan tâm, hay vì bồng bột của tuổi trẻ???

 

Vấn đề ở đây là quý phụ huynh, quý cô thầy và những ai quan tâm đến giới trẻ. Chúng ta cần làm gì để nâng đỡ, để hướng dẫn và giúp con em cách hữu hiệu trong vấn đề giáo dục giới tính này?

 

Ngay cả những em chưa bị chìm ngập trong tiếc xót, thì cũng có thể bị nhiều vết thương lòng và những di chứng về mặt tâm lý mà suốt đời phải mang nặng hay bị đám mây buồn đó vật vờ làm cho cuộc đời các em khó vươn cao và an bình trong tâm hồn.

 

Quý phụ huynh giải thích cho con em biết đâu là những điều khôn ngoan, và có ích mà quý vị ao ước cho con em, nhắc nhở, quan tâm, chứ không phải cấm đoán hay ngăn chặn, hoặc “làm khó dễ” cho con em, mà là muốn nắm chắc phần lợi và tốt đẹp nhất cho chúng.

 

Phía các bạn nam thanh thiếu niên, quý vị có thể giải thích theo một hướng khác, là đừng tạo nên những mối gắn bó tình cảm nơi con gái, nếu mình không yêu hay không có ý định dấn thân xây dựng cuộc đời với người ta, vì dù không có sự gắn bó như con gái, con trai cũng không thể cảm thấy mình tốt và tự tin trong những quan hệ này.

 

Xin phụ huynh giải thích cho tuổi nam thanh thiếu niên biết là phụ nữ sẽ rất gắn bó với bạn mình sau khi có quan hệ tình dục, vì họ cần và muốn. Nhưng về phần nam giới, chắc các bạn trai cũng muốn chứng tỏ sự tự trọng và giữ sự ngay thẳng của mình chứ? Và nhất là một người trung thực thì không muốn xúc phạm hay làm buồn hoặc làm tổn thương bạn mình?

 

 Hậu quả xã hội của việc quan hệ tình dục

 

Ở tuổi thanh thiếu niên, hậu quả xã hội của việc quan hệ tình dục thì vô kể. Thực tế và dễ gặp, vì lứa tuổi thanh thiếu niên chưa hiểu ý nghĩa sâu xa của hành động này, và thật sự cũng chưa hiểu thâm sâu.

Nếu chẳng may bạn mình đem chuyện tình dục quan hệ riêng tư của hai người kể cho các bạn khác nghe thì sao?

 

Tiếng tăm của mình sẽ ra sao? Nhất là các bạn gái…

 

Những tiếng xấu này ảnh hưởng tới việc học. Và bạn bè có thể nhìn mình với một cặp mắt khác. Việc này làm cho đương sự cảm thấy bị ra rìa, mặc cảm, tự rút lui và trở nên xấu hổ, cô độc…

 

“Nhiều bạn trai vì vô tình đã thêu dệt nhiều chuyện để tỏ ra mình anh hùng”… và điều này đã xúc phạm đến tình cảm, thanh danh và phá hoại những mối quan hệ tốt hoặc bình thường trước đây và các bạn trang lứa.

 

Quý vị giải thích cho con em mình và giúp họ thử đoán xem điều gì sẽ xảy ra trong lòng cô gái ấy, nếu cô ta đã gặp một người bạn trai như thế? Hay dù có hậu quả ít hơn đi nữa, người con gái sẽ cảm thấy gì khi mình bị lừa dối hoặc sai lầm khi chọn người để chia sẻ tình yêu thâm sâu với mình? Cô ta sẽ nghĩ gì về chính con người của mình? Chắc chắn là thất vọng, mặc cảm, mất tự tin và rất bất an khi bước chân vào đời.

 

Quý vị có thể hoặc một cách chính xác hơn nữa, là phải có bổn phận nói cho con em sự kiện thực tế này.

 

Quý phụ huynh có thể hỏi con em mình xem chúng có nghe và biết những trường hợp như thế không? Đó là một cách bắt đầu câu chuyện, và khi nói đến người khác, con em quý vị sẽ không ngại ngùng nhiều, và cuộc đối thoại giữa con em và quý vị có thể bắt đầu từ đó.

Cứ hỏi, cứ khơi, chắc con em quý vị cũng đang chờ hoặc sẽ sẵn sàng mở lòng nếu quý vị quan tâm cách tế nhị và khéo léo đến nhu cầu và tâm tình của con em.

 

 

 M. Thécla Trần Thị Giồng – Dòng Đức Bà

TS Tư Vấn Tâm Lý

 

YÊU, MỘT VŨ ĐIỆU HAI NHỊP

Nhiều bạn trẻ bước vào tình yêu hễ hơi gặp khó khăn đau khổ là chán nản thất vọng. Các bạn đó đòi hỏi người yêu phải chiều chuộng mình và tạo niềm vui cho mình nhưng chính mình lại quên thể hiện tình yêu của mình qua những hy sinh cho người mình yêu. Thực ra tình yêu là một vũ điệu hai nhịp: có bước tiến bước lui, bước lên bước xuống, có cho có nhận, có hạnh phúc và đau khổ. Vẫn biết rằng yêu là đau khổ, nhưng trong đau khổ có hạnh phúc. Đúng hơn, thách đố, đau khổ là một cơ hội để chứng minh tình yêu.

1. Vũ điệu: cho- nhận


Một tình yêu chân chính không phải là một trạng thái hưởng thụ một chiều nhưng là một truyền thông hai chiều có cho có nhận. Cho và nhận chính là hai nhịp trong vũ điệu tình yêu. Người chỉ biết nhận mà không biết cho là người ích kỉ không bao giờ nếm cảm được niềm vui của tình yêu đích thực. Nhưng cho là phải hy sinh, đau khổ. Vì thế mà nhiều người đã rất nhất trí với tư tưởng:”Yêu là chết trong lòng một tí”. Riêng cô Tiến sĩ Tin học Phan Thị Hà Dương khi được phỏng vấn về tình yêu gia đình còn nhấn mạnh hơn rằng :”Yêu là tát cạn bản thân mình” (PNCN ngày 8.3 số8.2000). Như thế, theo cô Hà Dương thì yêu không phải là chết trong lòng một tí mà là hy sinh, tất cả bản thân mình. Đức Giêsu khẳng định :”Không có tình yêu nào lớn hơn người hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu”. Đúng thế, tình yêu của các anh hùng ái quốc, của những người dám buông mình vào lũ lụt đế cứu sống đồng loại luôn được ghi nhớ muôn đời trong lòng dân tộc. Nhưng một điều kì diệu thật tuyệt vời là trong cái hy sinh chết đi cho tình yêu ấy chúng ta lại không mất đi, nhưng chính lúc cho là lúc nhận, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc hy sinh là lúc gieo trồng hạnh phúc. Cha mẹ được con ái yêu kính vì chúng thực sự cảm nhận được tình thương vô vị lợi của các ngài. Và chúng ta cũng thường cảm nhận tình yêu đích thực đối với một người nào đó đã quảng đại hy sinh cho chúng ta.

2. Vũ điệu: hạnh phúc và đau khổ

Nhiều người đã tâm sự ; sở dĩ họ có được gia đình hạnh phúc, vợ chồng cảm thông, con cái thành đạt như ngày hôm nay là nhờ họ đã có ý chí phấn đấu để vượt qua được những phút xao lòng của thời trai trẻ để chung thuỷ với nhau. Ví dụ minh hoạ: hy sinh chon lựa khi có người thứ ba xuất hiện, trong tình yêu, trong đời sống gia đình. Đối với các bạn trong gia đoạn tiền hôn nhân, khi đã chọn đính hôn với một ai rồi là đương nhiên các bạn phải hy sinh những tình yêu khác. Trong đời sống gia đình cũng thế, khi người thứ ba xuất hiện, nếu các bạn không biết hy sinh các bạn sẽ sống ngoại tình là nguyên nhân của sự đổ vỡ hạnh phúc. Có nhiều gia đình khi còn nghèo đói vợ chồng cùng nhau vượt qua biết bao đau khổ trong an vui hạnh phúc nhưng khi có sự nghiệp và chúc vụ thì chồng hoặc vợ đã đi tìm sự hưởng thụ riêng không còn biết hy sinh cho nhau nữa, và từ đó tình yêu chấp cánh bay đi để lại sự bất hạnh cho nhau và cho con cái.

Một hy sinh trong vũ điệu tình yêu đối với các bạn trẻ mà hôm nay tôi muốn nhấn mạnh ở đây là vấn đề tự chủ về tình cảm để chứng minh tình yêu đích thực của mình. Tình yêu không thể thử nghiệm bằng tình dục, nó để lại nơi người bạn của mình một trạng thái bất an và ân hận suốt đời. Thường thì những mối tình thiếu hy sinh đều kết thúc bằng sự đổ vỡ. Còn đối với những bạn thực sự yêu nhau thì luôn biết tôn trọng nhau và xây dựng hạnh phúc lứa đôi bằng chính năng lực và sự nghiệp của mình.

Nữ tu Têrêsa Phạm Thi Oanh

Dòng Đa minh Tam Hiệp

Chuyên viên tư vấn tâm lý giáo dục tình yêu hôn nhân gia đìn

 

ĐỌC SÁCH

 

DẤU CHÂN CỦA THẦY

 

CÁM DỖ

 

 (Lc 4, 1-13)

 

Thầy kính mến,

 

Luca, Máccô và Matthêu đều kể chuyện Thầy lên núi ăn chay và cầu nguyện 40 ngày. Sau đó Satan xuất hiện … Các nhà dịch thuật và chú giải Thánh Kinh, các nhà thần học và các nhà tu đức đều nói rằng Satan cám dỗ Thầy. Từ cuộc cám dỗ này, chúng con tìm ra được những bài học sau đây:

 

1. Thầy là Con Thiên Chúa, nhưng lại có bản tính loài người nên vẫn bị cám dỗ, để chia sẻ thân phận yếu hèn với loài người.

 

2. Các chước cám dỗ của Satan đều quy về ba mục tiêu: danh, lợi và thù.

 

3. Thầy dùng lời Thánh Kinh để trả lời cho Satan. Nhờ Thánh Kinh mà Thầy đã thắng Satan. Thắng ba trận giòn giã. Do đó muốn vượt thắng mọi cám dỗ, thì phải yêu Thánh Kinh, đọc Thánh Kinh và sống Thánh Kinh.

 

Suốt 30 năm linh mục, con vẫn nghĩ là Thầy bị ma quỷ cám dỗ; các bài giảng của con về Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay đều được soạn theo ba bài học trên. Cứ thế và cứ thế mãi cho tới một ngày kia …

 

Hôm ấy con đọc bài Tin Mừng này cùng với một người dự tòng. Người dự tòng ấy là một thiếu nữ cập kê.

 

Hai cha con chia sẻ Lời Chúa với nhau.

 

- Nếu có ai đó biểu con quỳ gối, cúi mình, hôn chân người ta một cái thì con sẽ được thưởng một ngàn cây vàng. Con chịu làm vậy không?

- Không! Nhục lắm!

- Nhưng nếu cha con bảo con hôn chân, thì đâu có nhục. Hôn chân cha, thì cha cho một ngàn cây vàng.

 

Vừa không nhục, vừa lời lớn. Con chịu làm không?

 

- Cũng không luôn. Nếu cha con thương con, thì thiếu gì cách mà phải bắt con làm như vậy.

Con giật mình đánh thót một cái. Thì ra con bé 15 tuổi này cũng thắng cám dỗ một cách giòn giã như Thầy, mà nó chưa hề được nuôi dưỡng bằng Thánh Kinh. Như vậy chiến thắng của Thầy chẳng có gì phải giòn giã như con vẫn nghĩ từ xưa đến đó. Vì thế con xin đặt lại vấn đề.

 

1. Satan không cám dỗ Thầy, vì cám dỗ là xui người ta làm điều sai trái. Nếu Thầy hóa đá thành bánh mà ăn thì có gì sai trái đâu.

 

2. Satan thăm dò, tìm hiểu xem Thầy có phải là Đấng Cứu Thế hay không? Hắn sử dụng ba kế:

Kế một: Nếu Thầy hóa đá thành bánh thì hắn kết luận ngay: Thầy là Đấng Cứu Thế. Nhưng Thầy không làm nên hắn phải bày kế hai.

 

Kế hai: Nếu Thầy quỳ xuống lạy hắn, hắn sẽ kết luận ngay Thầy chỉ là người phàm. Thầy không thèm quỳ lụy nó. Thế là nó vẫn phải tiếp tục thăm dò.

 

Kế ba: Nếu Thầy nhảy xuống từ nóc đền thờ, hắn sẽ phát giác ra Thầy chính là Đấng Cứu Thế. Thầy không nhảy xuống. Hắn đành chịu thua. Chờ một dịp khác thuận lợi hơn. Nghĩa là hắn chưa biết Thầy là Đấng Cứu Thế.

 

3. Hắn phải chờ mãi cho tới ngày Thầy chữa một người bị quỷ nhập tại nguyện đường Caphácnaum, hắn mới biết chắc Thầy là ai: “Ong Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi có can gì đến ông đâu mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi. Ong là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24).

 

Thầy kính mến,

 

Nếu phải chờ cho đến hôm ấy Satan mới biết Thầy là Đấng Cứu Thế, thì con xin phép Thầy để con nói chuyện với hắn.

 

Satan ơi!

 

Người ta bảo rằng mi thông minh lắm, thông minh như Thiên Thần vậy. Vừa thông minh, vừa quỷ quyệt. Vì thế người ta sợ mi quá. Sợ mi cám dỗ. Sợ mi nhập. Nhưng ta nói thật với mi rằng: Mi chỉ là một thụ tạo tầm thường và ngu xuẩn có tầm cỡ.

 

1. Khi sứ thần Gáprien báo tin cho Đức Maria thụ thai Đấng Cứu Thế, thì mi ở đâu mà không biết?

2. Đức Maria đến Ainkarim thăm bà Elidabét. Hai chị em chuyện trò, tâm sự với nhau suốt ba tháng. Chắc chắn các ngài nói rất nhiều đến Đấng Cứu Thế. Thế mà mi chả biết.

3. Khi Đấng Cứu Thế sinh ra ở Bêlem, thì sứ thần nói rõ với mục đồng rằng: “Này tôi bảo cho anh em một tin vui trọng đại, đó là hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra trong thành của vua Đavít …” Sứ thần nói rõ như thế, mà mi thì điếc không nghe.

4. Khi Đức Maria dâng Con cho Chúa ở Giêrusalem, thì cụ già Simêon xin được bồng ẳm Bé và gọi Bé là “Anh sáng của muôn dân”. Mi không biết!

5. Khi Gioan làm phép rửa cho Chúa ở sông Giođan, thì có tiếng từ trời phán: “Đây là con Ta yêu dấu …” Mi cũng không biết.

Phải thú thật rằng trước đây ta cũng sợ mi lắm. Nhưng bây giờ thì không. Ta không sợ mi một tí nào. Mi có nhớ không, khi Đức Giêsu sai 72 môn đệ lên đường truyền giáo, họ đã làm gì mi? Họ nhân danh Đức Giêsu để trừ mi, mi chạy te te. Họ kể chuyện đó cho Đức Giêsu, Ngài bèn phán: “Thầy thấy Satan từ trời rơi xuống như một lằn chớp” (Lc 10,17-18).

 

Thầy ơi! Xin ban cho con quyền năng đạp lên rắn rết, bò cạp và mọi thế lực của Satan (Lc 10,19).

 

Lm. Piô NGÔ PHÚC HẬU